cokhong_khongco
02-12-2011, 09:19 AM
Tánh là nguyên lý sanh ra chúng-sanh, vạn-vật các pháp.
Tánh tức là võ-trụ không gian trơ lặng
Tánh là bản nguyên của tất cả
Tánh là gốc nguồn của muôn loại
Tánh cũng là bản chất dầu tiên của võ-trụ.
Tánh là họ, vốn, chơn thật của cả thảy, cũng là căn bản của hết thảy.
http://cB5.upanh.com/19.0.25289254.Zyq0/01.jpg
Võ-trụ tự-nhiên là tánh, là chơn như không vọng động, hay là chánh định, cái ấy sanh ra tất cả thế giới, vạn-vật, chúng-sanh các pháp, tứ đại địa cầu, đất, nước, lửa, gió, cỏ, cây, thú, người, Trời Phật, có ra là do chơn như võ-trụ, ở trong chơn như võ-trụ.
Vậy nên tất cả đều có một họ, tánh, một gốc vốn cội nguồn, nguyên lý, bản chất. Cả thảy đều ở trong một họ một tánh, con của một bà mẹ. Cái chi cũng đang chịu mang ân huệ, cái ích lợi, cái thiện trùm chứa, của ĐỨC TÁNH chơn như cả, chơn như là BẢN TÁNH của hết thảy vậy.
Vì thế cho nên khi xưa, đức Thích Ca Mâu Ni cũng chư Phật quá khứ, hay cả hiện tại vị lai, các Ngài sau khi đã giác ngộ, nhận ra cái chơn tánh như ấy; các Ngài cho nó là tánh họ của các Ngài, họ cho của người giác-ngộ, PHẬT TÁNH, tánh của chư Phật . Tánh ấy chơn như , không vọng động, trơ lặng không không, chơn thật, nguyên lý, bản chất, gốc vốn, cội nguồn, mà ai ai giác-ngộ ra, cũng đều trở lại ! Nên các chư Phật ấy, có gọi tên là NHƯ LAI, trở lại với chơn như.
Như thế thì tất cả chúng-sanh là một họ tánh chơn như, thật tánh; còn các họ tánh sau nầy, là lục tánh, pháp lý của chơn như túa ra vậy. cũng như tất cả chúng-sanh đều có một con đường cái lớn, còn những con đường lối nghệ nghiệp tế lạc sau nầy, là chi nhánh tách lạc vọng động ngoằn nghèo, lẻ tẻ không thật .
Hiểu nơi Phật tánh, tức là hiểu được mọt món thuốc quý để trau tâm, un đúc thành tâm, dùng nó làm tâm, nuôi nó cho cái sống, cái giác, cái linh, được thiện chánh, lơ1những tròn, tốt đẹp quí báu. Tánh là chơn như , tâm là trung tâm trụ cốt, chư Phật, bậc giác-ngộ lấy tánh chơn làm tâm trung, vì vậy mà người ta gọi là : Phật có tâm tánh, tâm chơn, hay chơn tâm là Phật. Vì kẻ có được tâm chơn là người giác-ngộ, kẻ ấy lời nói, việc làm, ý niệm, đã được chơn như không vọng động, y như võ-trụ chơn tánh ! Hay là lời nói để đem lại chơn như, cả thảy các pháp là đem lại chơn như, hay từ trong chơn như sanh ra vạn pháp
Kìa một nhà sư tham thiền : Mỗi cái chi vọng động xảy đến, là Ngài tầm sát rốt ráo nguyên lý của nó, là chơn tánh, mỗi pháp nào Ngài cũng thấy rõ tánh gốc của nó là chơn như. Như vậy thì mỗi pháp hiện đến là mỗi chơn như hiện đến, tô đắp tâm thêm to lớn, cứng chắc, tròn trịa, y như tánh chơn võ-trụ. Như thế tức là nhà sư ấy, láy cái pháp chơn như, mượn cái tánh võ-trụ làm tâm, để tạo tâm chơn, hay chơn tâm vĩnh viễn của bậc giác-ngộ, Phật. Đó tức là chơn như do vạn pháp.
Và như sau đó, pháp lý từ trong tâm chơn giáo hóa dạy ra, để dắt dẫn chúng-sanh đến với tâm chơn y như mình, nên kêu là vạn pháp do chơn như vậy.
Mỗi cái chơn như của người tu đều có ra là do trí huệ, trí huệ là sự tầm sát tánh chơn của các pháp, mà diệt bỏ giải thoát khỏi các pháp ấy, mới được chơn như. Thế nên gọi là : chơn như do trí huệ, trí huệ do chơn như, hay cũng là : chơn như do giải thoát, giải thoát do chơn như, mà giải thoát tức là trí huệ. Trí huệ hoàn toàn. Tức là giải thoát hoàn toàn, chơn như hoàn toàn, còn trí huệ nhỏ hẹp, thì giải thoát nhỏ hẹp, chơn như sẽ nhỏ hẹp.
Khi xưa đức Phật Thích Ca có danh hiệu Mưu Ni, là báu giải thoát, cũng y như thế. trong khi Ngài giải thoát tất cả các pháp, sau sự thấu suốt tánh chơn của nó, tức là Ngài đã chơn như tròn trịa, quý báu như viên ngọc, viên ngọc chơn như ấy, tức là sự giải thoát, có ra do sự giải thoát là cốt yếu, mà đức Phật, lấy sự giải thoát các sở chấp làm trung tâm, nên chúng-sanh xưng tặng Ngài là món bửu trân mưu ni vô giá, quý giá vô cùng. Chính cái báu giải thoát chơn như, là diệt khổ, là sống đời, là linh thiêng, là giác-ngộ, là hột giống vĩnh viễn, nên ai ai cũng quý trọng lắm.
Vậy nên ai cũng muốn thấy nó, thấy bằng cách nó có cho minh nó ở với mình, mình đạt được. Như thế là thấy tánh thành Phật ! Mà thấy tánh là thấy cái chơn như, không vọng động, thấy cái giải thoát các pháp, các sở chấp, do sự giác-ngộ trí huệ là Phật của mình, chớ chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng v.v…
Bởi thế nên người tu cần phải giác-ngộ, hiểu biết chơn tánh võ-trụ cho kỹ, để lấy đó trau tâm, tập mình như võ-trụ, kết quả như võ-trụ. Mà cần phải hiểu biết rằng : chơn tánh là do giác-ngộ, vọng tánh là bởi mê lầm : vọng tánh là tánh ma, chơn tánh mới phải chư Phật : mà chơn tánh Phật, có ra là do trí huệ giải thoát, có giải thoát mới có thành Phật, gọi giác-ngộ được. Cũng như có dứt bỏ mới hết mê lầm. Vì trong chơn như thì không còn vọng động nữa, hay là nhờ thấy rõ chơn tánh của pháp rồi, thì không nên sở chấp bên ngoài nữa, đừng mê tríu nó nữa, mới gọi chơn như đặng.
Vậy thì đời nay, những ai muốn gọi mình là Thích tử, thì tất nhiên phải là kẻ giác-ngộ, trí huệ, giải thoát xuất gia trọn vẹn cả thân tâm mới được, vì chỉ có Phật tánh, tánh chơn là phải xuất gia giải thoát trong sạch mà thôi, từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều. Tánh chơn Phật đầy đủ trọn vẹn, tức là sự xuất gia giải thoát trọn vẹn vậy. Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh, tất cả chúng-sanh si mê đều có tánh giác, trong mỗi cái mê đều có ngầm chứa sự phản đối giác-ngộ, trong mỗi cái vọng, đều có chứa cái tuơng đối là chơn, câu nói ấy, để chỉ rõ ra rắng, người tu lúc đầu, là nơi các pháp chúng-sanh, si mê vọng động, mà phải khổ chết, cũng vì pháp nào cũng khổ chết đó, họ mới giác-ngộ, thấy ra chơn tánh, giác-ngộ, nơi mỗi pháp ác tà si mê vọng động, mà xa tránh, ghê sợ, bứt bỏ nó, để bảo giữ chơn như trơ lặng giải thoát, chớ không phải giữ mãi cái mê vọng, ở hoài trong ấy, mà tưởng cái hiểu biết của mình là đã giác chơn Phật rồi, để ra khốn lụy.
Kìa chư Phật giải thoát để nuôi tâm chơn. Đức Thích Ca được chơn như là nhờ giải thoát, thì đời nay có ai tài gì, miệng nói, mà được cái giải thoát chơn như rồi đâu ?
Kìa một kẻ té dưới sống hẹp, bởi sợ chết khổ mới trèo lên bờ; có bờ cho nó trèo lên là bởi tại sông hẹp, bãi lài, có nấc lội lên; khi lên đến trên rồi, là được giải thoát, từ đó khát nước là uống nước mưa, tắm nước mưa, ở ăn cao ráo trong sạch, khác hơn hời bị sợ sệt, chết chìm nơi dưới nước sông kia vậy. Kẻ ấy, có chăng là khá hơn một người nọ, họ té xuống biển bị trôi giạt giữa vời không lên giải thoát, thế mà chưa hay sự khổ chết đến, lại chẳng biết chán sợ lo xa, còn cho rằng : mình tắm biển vui chơi, ở mãi, yên ổn sướng hơn kẻ khác trên bờ kia nữa.
Sự giác-ngộ chơn tánh võ-trụ để tu giải thoát, bước lên, dứt bỏ, là giống như kẻ trôi sông hẹp. Còn si mê lầm tưởng mình Phật, ở hoài nơi trói buộc vọng động, tức là như người té biển rộng mênh-mông, không ích lợi vào đâu, cũng y như vậy.
Như thế nghĩa là người tu phải giải thoát, lấy giải thoát làm mục-đích, vì có bỏ ma mới trông thành Phật đặng, cũng như các pháp đều tương đối, ta phải lấy cái chơn, bò lìa cái vọng, ta phải y như Phật bỏ lìa chúng-sanh, mà không nên tiếc nó nữa.
Bởi đó mà khi xưa có một vị Tỳ kheo nói chỉ có một họ với ông cha, mới phải là đứa con. Câu nói ấy chỉ rằng : Phật tử, Thích tử, Phật tánh, Thích tánh, phải là những kẻ xuất gia giải thoát, Khất sĩ Du Tăng, y như Phật Thích Ca mới đặng. Vì chỉ có con là phải nối chí cha, hành vi cử chỉ , lời nói, ý niệm, phải giống y như cha mới đúng. Như kìa con họ Lý, chẳng có ở bên họ Trần; giống như con Phật, phải ở trong nhà Phật, mà không có chen lộn trong nhà Trời, nhà người, hay trong các nhà khác … Cũng như người giải thoát xuất gia chơn như, là không bao giờ còn ở trong xã-hội, gia-đình các nơi vọng động, đặng đâu. Xưa kia các bậc Tỳ kheo Khất sĩ quen tâm chơn như trơ lặng, chẳng bao giờ vào trong nhà thế ở đặng một ngày. Xưa kia những bậc thật hành chánh định chơn như, mà còn như thế. Các bậc ấy đã khắc kỵ. Khác hẳn với cõi đời, không còn một niệm phàm tục, vẫy tường bà con, mà còn khó được tâm trong sạch thay, huống hồ gì chúng ta ngày nay, cư gia hữu lậu, đang ở trong miếng đất giới-luật 5 giới, 8 giới, 10 giới của nhà trời, đang làm con trời, thiện tánh, họ trời ở trong nhà trời, cõi trời; nếu không giải thoát xuất gia sanh vào trong nhà Phật thọ giới cụ túc Tỳ kheo, làm con Phật, y như Phật, thì làm sao nhập chánh định giác chơn, y như Phật, mà lầm là đắc Phật tánh, thành Phật ! Như vậy nghĩa là : ngó Phật tánh, nhìn Phật tánh, hiểu Phật tánh, ở nơi mỗi việc, mỗi chỗ, mỗi người kia, ai cũng hiểu ngó mình bên ngoài được dễ dàng hết, chớ còn ngó lại có thấy nơi mình, có thật hành, có được hay không, thì thật là khổ lắm. Cũng như người sanh ra ở đời, nói chuyện Phật, thấy hình Phật, thì ai cũng thấy được, nhưng khi mình làm Phật, thì ít ai muốn chịu làm, không phải dễ dàng như ngó thoáng qua, hay nói suông được. Đời nay lắm kẻ chỉ học giáo pháp Phật Thích ca, mà tưởng lầm mình là Phật tử, Thích tử, cũng y như thế, không phải học Phật là con Phật đâu, chưa phải người đi nghe pháp Phật, là đệ tử ruột của Phật rồi đâu. Dầu đức Phật có ban ân khuyến dụ đi nữa chớ người tu là bao giờ cũng phải thấy lại nơi mình, thấy cái Phật tánh của mình, xem lại mình có giống y như Phật chăng, rồi sẽ hay, chớ đối với những ông già kỹ càng thận trọng, dày công tu tập lâu đời, mà hãy còn sự sệt lắm, không ai dám vội mở mắt ra, bôn chôn láo táo.
Thật vậy từ xưa, cho đến nay, những kẻ tăng sự chơn đạo, họ chỉ mãi lo tu, mà nào có dám nói là thấy mình, là có cái đắc, cái Phật, cái tánh gì đâu; khi xưa chư Bồ Tát lớn, còn không dám suy tưởng đến quả Phật, chư Thinh Văn, Duyên giác, lại cũng chẳng trông mong, huống chi chúng ta đời nay quá xa lạc.
Tánh tức là võ-trụ không gian trơ lặng
Tánh là bản nguyên của tất cả
Tánh là gốc nguồn của muôn loại
Tánh cũng là bản chất dầu tiên của võ-trụ.
Tánh là họ, vốn, chơn thật của cả thảy, cũng là căn bản của hết thảy.
http://cB5.upanh.com/19.0.25289254.Zyq0/01.jpg
Võ-trụ tự-nhiên là tánh, là chơn như không vọng động, hay là chánh định, cái ấy sanh ra tất cả thế giới, vạn-vật, chúng-sanh các pháp, tứ đại địa cầu, đất, nước, lửa, gió, cỏ, cây, thú, người, Trời Phật, có ra là do chơn như võ-trụ, ở trong chơn như võ-trụ.
Vậy nên tất cả đều có một họ, tánh, một gốc vốn cội nguồn, nguyên lý, bản chất. Cả thảy đều ở trong một họ một tánh, con của một bà mẹ. Cái chi cũng đang chịu mang ân huệ, cái ích lợi, cái thiện trùm chứa, của ĐỨC TÁNH chơn như cả, chơn như là BẢN TÁNH của hết thảy vậy.
Vì thế cho nên khi xưa, đức Thích Ca Mâu Ni cũng chư Phật quá khứ, hay cả hiện tại vị lai, các Ngài sau khi đã giác ngộ, nhận ra cái chơn tánh như ấy; các Ngài cho nó là tánh họ của các Ngài, họ cho của người giác-ngộ, PHẬT TÁNH, tánh của chư Phật . Tánh ấy chơn như , không vọng động, trơ lặng không không, chơn thật, nguyên lý, bản chất, gốc vốn, cội nguồn, mà ai ai giác-ngộ ra, cũng đều trở lại ! Nên các chư Phật ấy, có gọi tên là NHƯ LAI, trở lại với chơn như.
Như thế thì tất cả chúng-sanh là một họ tánh chơn như, thật tánh; còn các họ tánh sau nầy, là lục tánh, pháp lý của chơn như túa ra vậy. cũng như tất cả chúng-sanh đều có một con đường cái lớn, còn những con đường lối nghệ nghiệp tế lạc sau nầy, là chi nhánh tách lạc vọng động ngoằn nghèo, lẻ tẻ không thật .
Hiểu nơi Phật tánh, tức là hiểu được mọt món thuốc quý để trau tâm, un đúc thành tâm, dùng nó làm tâm, nuôi nó cho cái sống, cái giác, cái linh, được thiện chánh, lơ1những tròn, tốt đẹp quí báu. Tánh là chơn như , tâm là trung tâm trụ cốt, chư Phật, bậc giác-ngộ lấy tánh chơn làm tâm trung, vì vậy mà người ta gọi là : Phật có tâm tánh, tâm chơn, hay chơn tâm là Phật. Vì kẻ có được tâm chơn là người giác-ngộ, kẻ ấy lời nói, việc làm, ý niệm, đã được chơn như không vọng động, y như võ-trụ chơn tánh ! Hay là lời nói để đem lại chơn như, cả thảy các pháp là đem lại chơn như, hay từ trong chơn như sanh ra vạn pháp
Kìa một nhà sư tham thiền : Mỗi cái chi vọng động xảy đến, là Ngài tầm sát rốt ráo nguyên lý của nó, là chơn tánh, mỗi pháp nào Ngài cũng thấy rõ tánh gốc của nó là chơn như. Như vậy thì mỗi pháp hiện đến là mỗi chơn như hiện đến, tô đắp tâm thêm to lớn, cứng chắc, tròn trịa, y như tánh chơn võ-trụ. Như thế tức là nhà sư ấy, láy cái pháp chơn như, mượn cái tánh võ-trụ làm tâm, để tạo tâm chơn, hay chơn tâm vĩnh viễn của bậc giác-ngộ, Phật. Đó tức là chơn như do vạn pháp.
Và như sau đó, pháp lý từ trong tâm chơn giáo hóa dạy ra, để dắt dẫn chúng-sanh đến với tâm chơn y như mình, nên kêu là vạn pháp do chơn như vậy.
Mỗi cái chơn như của người tu đều có ra là do trí huệ, trí huệ là sự tầm sát tánh chơn của các pháp, mà diệt bỏ giải thoát khỏi các pháp ấy, mới được chơn như. Thế nên gọi là : chơn như do trí huệ, trí huệ do chơn như, hay cũng là : chơn như do giải thoát, giải thoát do chơn như, mà giải thoát tức là trí huệ. Trí huệ hoàn toàn. Tức là giải thoát hoàn toàn, chơn như hoàn toàn, còn trí huệ nhỏ hẹp, thì giải thoát nhỏ hẹp, chơn như sẽ nhỏ hẹp.
Khi xưa đức Phật Thích Ca có danh hiệu Mưu Ni, là báu giải thoát, cũng y như thế. trong khi Ngài giải thoát tất cả các pháp, sau sự thấu suốt tánh chơn của nó, tức là Ngài đã chơn như tròn trịa, quý báu như viên ngọc, viên ngọc chơn như ấy, tức là sự giải thoát, có ra do sự giải thoát là cốt yếu, mà đức Phật, lấy sự giải thoát các sở chấp làm trung tâm, nên chúng-sanh xưng tặng Ngài là món bửu trân mưu ni vô giá, quý giá vô cùng. Chính cái báu giải thoát chơn như, là diệt khổ, là sống đời, là linh thiêng, là giác-ngộ, là hột giống vĩnh viễn, nên ai ai cũng quý trọng lắm.
Vậy nên ai cũng muốn thấy nó, thấy bằng cách nó có cho minh nó ở với mình, mình đạt được. Như thế là thấy tánh thành Phật ! Mà thấy tánh là thấy cái chơn như, không vọng động, thấy cái giải thoát các pháp, các sở chấp, do sự giác-ngộ trí huệ là Phật của mình, chớ chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng v.v…
Bởi thế nên người tu cần phải giác-ngộ, hiểu biết chơn tánh võ-trụ cho kỹ, để lấy đó trau tâm, tập mình như võ-trụ, kết quả như võ-trụ. Mà cần phải hiểu biết rằng : chơn tánh là do giác-ngộ, vọng tánh là bởi mê lầm : vọng tánh là tánh ma, chơn tánh mới phải chư Phật : mà chơn tánh Phật, có ra là do trí huệ giải thoát, có giải thoát mới có thành Phật, gọi giác-ngộ được. Cũng như có dứt bỏ mới hết mê lầm. Vì trong chơn như thì không còn vọng động nữa, hay là nhờ thấy rõ chơn tánh của pháp rồi, thì không nên sở chấp bên ngoài nữa, đừng mê tríu nó nữa, mới gọi chơn như đặng.
Vậy thì đời nay, những ai muốn gọi mình là Thích tử, thì tất nhiên phải là kẻ giác-ngộ, trí huệ, giải thoát xuất gia trọn vẹn cả thân tâm mới được, vì chỉ có Phật tánh, tánh chơn là phải xuất gia giải thoát trong sạch mà thôi, từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều. Tánh chơn Phật đầy đủ trọn vẹn, tức là sự xuất gia giải thoát trọn vẹn vậy. Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh, tất cả chúng-sanh si mê đều có tánh giác, trong mỗi cái mê đều có ngầm chứa sự phản đối giác-ngộ, trong mỗi cái vọng, đều có chứa cái tuơng đối là chơn, câu nói ấy, để chỉ rõ ra rắng, người tu lúc đầu, là nơi các pháp chúng-sanh, si mê vọng động, mà phải khổ chết, cũng vì pháp nào cũng khổ chết đó, họ mới giác-ngộ, thấy ra chơn tánh, giác-ngộ, nơi mỗi pháp ác tà si mê vọng động, mà xa tránh, ghê sợ, bứt bỏ nó, để bảo giữ chơn như trơ lặng giải thoát, chớ không phải giữ mãi cái mê vọng, ở hoài trong ấy, mà tưởng cái hiểu biết của mình là đã giác chơn Phật rồi, để ra khốn lụy.
Kìa chư Phật giải thoát để nuôi tâm chơn. Đức Thích Ca được chơn như là nhờ giải thoát, thì đời nay có ai tài gì, miệng nói, mà được cái giải thoát chơn như rồi đâu ?
Kìa một kẻ té dưới sống hẹp, bởi sợ chết khổ mới trèo lên bờ; có bờ cho nó trèo lên là bởi tại sông hẹp, bãi lài, có nấc lội lên; khi lên đến trên rồi, là được giải thoát, từ đó khát nước là uống nước mưa, tắm nước mưa, ở ăn cao ráo trong sạch, khác hơn hời bị sợ sệt, chết chìm nơi dưới nước sông kia vậy. Kẻ ấy, có chăng là khá hơn một người nọ, họ té xuống biển bị trôi giạt giữa vời không lên giải thoát, thế mà chưa hay sự khổ chết đến, lại chẳng biết chán sợ lo xa, còn cho rằng : mình tắm biển vui chơi, ở mãi, yên ổn sướng hơn kẻ khác trên bờ kia nữa.
Sự giác-ngộ chơn tánh võ-trụ để tu giải thoát, bước lên, dứt bỏ, là giống như kẻ trôi sông hẹp. Còn si mê lầm tưởng mình Phật, ở hoài nơi trói buộc vọng động, tức là như người té biển rộng mênh-mông, không ích lợi vào đâu, cũng y như vậy.
Như thế nghĩa là người tu phải giải thoát, lấy giải thoát làm mục-đích, vì có bỏ ma mới trông thành Phật đặng, cũng như các pháp đều tương đối, ta phải lấy cái chơn, bò lìa cái vọng, ta phải y như Phật bỏ lìa chúng-sanh, mà không nên tiếc nó nữa.
Bởi đó mà khi xưa có một vị Tỳ kheo nói chỉ có một họ với ông cha, mới phải là đứa con. Câu nói ấy chỉ rằng : Phật tử, Thích tử, Phật tánh, Thích tánh, phải là những kẻ xuất gia giải thoát, Khất sĩ Du Tăng, y như Phật Thích Ca mới đặng. Vì chỉ có con là phải nối chí cha, hành vi cử chỉ , lời nói, ý niệm, phải giống y như cha mới đúng. Như kìa con họ Lý, chẳng có ở bên họ Trần; giống như con Phật, phải ở trong nhà Phật, mà không có chen lộn trong nhà Trời, nhà người, hay trong các nhà khác … Cũng như người giải thoát xuất gia chơn như, là không bao giờ còn ở trong xã-hội, gia-đình các nơi vọng động, đặng đâu. Xưa kia các bậc Tỳ kheo Khất sĩ quen tâm chơn như trơ lặng, chẳng bao giờ vào trong nhà thế ở đặng một ngày. Xưa kia những bậc thật hành chánh định chơn như, mà còn như thế. Các bậc ấy đã khắc kỵ. Khác hẳn với cõi đời, không còn một niệm phàm tục, vẫy tường bà con, mà còn khó được tâm trong sạch thay, huống hồ gì chúng ta ngày nay, cư gia hữu lậu, đang ở trong miếng đất giới-luật 5 giới, 8 giới, 10 giới của nhà trời, đang làm con trời, thiện tánh, họ trời ở trong nhà trời, cõi trời; nếu không giải thoát xuất gia sanh vào trong nhà Phật thọ giới cụ túc Tỳ kheo, làm con Phật, y như Phật, thì làm sao nhập chánh định giác chơn, y như Phật, mà lầm là đắc Phật tánh, thành Phật ! Như vậy nghĩa là : ngó Phật tánh, nhìn Phật tánh, hiểu Phật tánh, ở nơi mỗi việc, mỗi chỗ, mỗi người kia, ai cũng hiểu ngó mình bên ngoài được dễ dàng hết, chớ còn ngó lại có thấy nơi mình, có thật hành, có được hay không, thì thật là khổ lắm. Cũng như người sanh ra ở đời, nói chuyện Phật, thấy hình Phật, thì ai cũng thấy được, nhưng khi mình làm Phật, thì ít ai muốn chịu làm, không phải dễ dàng như ngó thoáng qua, hay nói suông được. Đời nay lắm kẻ chỉ học giáo pháp Phật Thích ca, mà tưởng lầm mình là Phật tử, Thích tử, cũng y như thế, không phải học Phật là con Phật đâu, chưa phải người đi nghe pháp Phật, là đệ tử ruột của Phật rồi đâu. Dầu đức Phật có ban ân khuyến dụ đi nữa chớ người tu là bao giờ cũng phải thấy lại nơi mình, thấy cái Phật tánh của mình, xem lại mình có giống y như Phật chăng, rồi sẽ hay, chớ đối với những ông già kỹ càng thận trọng, dày công tu tập lâu đời, mà hãy còn sự sệt lắm, không ai dám vội mở mắt ra, bôn chôn láo táo.
Thật vậy từ xưa, cho đến nay, những kẻ tăng sự chơn đạo, họ chỉ mãi lo tu, mà nào có dám nói là thấy mình, là có cái đắc, cái Phật, cái tánh gì đâu; khi xưa chư Bồ Tát lớn, còn không dám suy tưởng đến quả Phật, chư Thinh Văn, Duyên giác, lại cũng chẳng trông mong, huống chi chúng ta đời nay quá xa lạc.