kimthao77
02-14-2011, 09:57 AM
1. Cây sống đời.
Sống đời còn gọi là cây thuốc bỏng, lạc địa sinh căn, thổ tam thất, trường sinh, tên khoa học là Kalanchoe pinnata (Lam.) Pers.
Toàn thân cây có vị nhạt, chát, hơi chua, tính mát, có tác dụng giải độc, tiêu thũng, hoạt huyết chỉ thống, bạt độc sinh cơ.
Ngọn và lá sống đời non có thể thái nhỏ nấu canh ăn và dùng làm thuốc giải độc, chữa bỏng, đắp vết thương, đắp mắt đỏ sưng đau, đắp mụn nhọt và cầm máu. Do có tác dụng kháng khuẩn nên sống đời còn được dùng trị một số bệnh đường ruột và bệnh nhiễm trùng khác như viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, đi ngoài ra máu.
Ở Ấn Độ, người ta dùng lá cây này đắp trị bỏng, vết thương, mụn nhọt và các vết cắn đốt của côn trùng. Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng chữa ung sang thũng độc, viêm tuyến vú, đan độc, ngoại thương xuất huyết, đòn ngã, tổn thương, gãy xương, bỏng, viêm tai giữa.
Cách dùng: Lá tươi giã nát đắp hoặc vắt lấy nước bôi hàng ngày. Có thể dùng lá tươi 40g rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước hoặc hòa với nước chín rồi lọc lấy nước cốt để uống. Ngoài ra lá tươi giã nát vắt lấy nước, nhỏ vào tai chữa được bệnh viêm tai giữa cấp tính. Cũng nước lá tươi, thêm rượu và đường uống chữa bị ngã, bị thương thổ huyết.
2. Cây lô hội
Còn gọi là lưu hội hoặc nha đam, tên khoa học là Aloe vera L. Nhựa và lá cây có vị đắng, tính hàn, có tác dụng tiêu viêm, nhuận trường, diệt ký sinh trùng.
Nhựa lô hội thường dùng để trị kinh bế, kinh nguyệt ít, táo bón, đại tiện bí, sung huyết não, kinh phong. Người ta cũng dùng cả lá lẫn vỏ cây giã nhuyễn đắp lên để trị mụn nhọt sưng đỏ.
Ngoài ra dùng 10-15g lá, 1,5-3g nhựa dưới dạng viên hoặc nghiền thành bột đắp tại chỗ trị đau đầu, chóng mặt, táo bón, trẻ em co giật, suy dinh dưỡng, ho gà, sâu răng, viêm mủ da, Eczema.
Đặc biệt, lô hội có tác dụng trị vết cháy và bỏng rất nhanh.Có thể dùng lá cây chiết dịch xoa tại chỗ hoặc lấy một lá (15-18cm) đun sôi với nước, cho thêm đường vào uống để làm dịu đau rát và giúp vết thương mau lành. Tuy nhiên người bị yếu dạ dày, ruột và phụ nữ có thai không nên dùng.
Ngoài ra, có thể uống gel tươi, cách vài giờ uống một muỗng canh lúc đói giúp làm êm dịu vết loét dạ dày. Nhờ có chứa canxi, kali, kẽm, vitamin C, E là những tiền chất cơ bản đẩy nhanh tiến trình làm lành da, đặc biệt là canxi giữ vai trò quan trọng trong hệ thống thần kinh và mô cơ, chất xúc tác chính trong tất cả quá trình chữa lành vết thương, nên lô hội giúp rút ngắn thời gian làm lành mọi vết thương.
Bên cạnh đó, loài thực vật này còn có tác dụng chống viêm nhiễm, dị ứng hay trị vết sưng do côn trùng cắn. Do có chứa những hợp chất hữu cơ gồm vitamin, các hoóc môn, magie lactat có tác dụng ức chế phản ứng histamin, ức chế và loại trừ bradykinin là những thành phần gây dị ứng và viêm. Dịch lô hội tươi còn có tác dụng kháng khuẩn lao invitro và một số vi khuẩn thông thường gây nhiễm trùng da.
Lô hội còn có khả năng chống lão hóa tế bào vì chứa 17 amino axit cần thiết cho sự tổng hợp protein mô tế bào và canxi làm duy trì sự cân bằng giữa trong và ngoài tế bào, tạo ra các tế bào khoẻ mạnh. Thêm vào đó, photpho, đồng, sắt, magie, kali, natri có trong thân cây cũng là các yếu tố cần thiết cho sự trao đổi chất và các hoạt động của tế bào.
Trong dược học, lô hội cũng được dùng để giải độc cơ thể: Lignin trong lô hội có tác dụng như một chất xơ cuốn sạch các chất thải bị kẹt trong các nếp gấp của ruột; uronic axit loại trừ chất độc trong tế bào; kali cải thiện chức năng gan và thận là hai cơ quan chủ yếu của việc loại trừ chất độc trong cơ thể.
Lô hội còn có tác dụng dinh dưỡng và sinh năng lượng do chứa vitamin C thúc đẩy quá trình trao đổi chất, sinh năng lượng cần thiết và duy trì hoạt động miễn dịch, giúp phòng bệnh. Trong thân cây có các enzym cần thiết để phân giải đường, đạm, chất béo trong dạ dày và ruột.
Trong thành phần của lô hội chứa polysaccharid là acetylat mannose (acemannan) có tác dụng như là một chất kích thích miễn dịch rất hiệu quả, chống lại virus gây bệnh cúm, sởi và các giai đoạn sớm của hội chứng AIDS. Nó cũng có tác dụng chống lại một vài loại ung thư trên động vật, phần lớn là sarcoma và đang được khảo sát để điều trị ung thư trên con người.
Ngoài ra, lô hội còn có công dụng nhuận tẩy do có chứa các anthraquinon; giảm đau do viêm khớp; cân bằng đường huyết; phòng ngừa sỏi niệu; giảm đau do viêm khớp, đau cơ nhờ vào các anthraquinon phối hợp với canxi trong đường tiểu thành hợp chất tan được để tống ra ngoài theo nước tiểu.
Hiện nay trên thị trường, nhiều hãng mỹ phẩm dùng lô hội chiết xuất để sản xuất các loại kem bôi da, dầu gội, dầu xả, dầu khử mùi hôi, chất chống mốc, xà phòng, kem cạo râu,... Đặc biệt do pH của gel lô hội gần giống pH của da nên điều hòa được độ acid của da, làm da tươi tắn.
3. Hoa hồng
Còn gọi là cây hường hay bông hồng, tên khoa học là Rosa chinensis Jacq.
Hoa hồng có vị ngọt, tính ấm có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng. Hoa cho tinh dầu thơm dùng chế nước hoa. Hoa, rễ và lá được dùng làm thuốc.
Thành phần hóa học: Trong hoa có dầu với tỷ lệ 0,013-0,15%, mà thành phần chủ yếu gồm 1-citronellol, geraniol, phenethyl alcol, stearoptenes.
Người ta dùng 2-10g hoa hãm uống hoặc tán bột uống để chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, đinh nhọt, viêm mủ da, bệnh bạch hầu lao cổ. Bột hoa hồng còn có tác dụng cầm máu, chữa băng huyết, đi cầu lỏng. Dùng cẩn thận trong trường hợp tiêu hóa khó khăn, riêng người có thai không dùng.
Ngoài ra dùng10-15g rễ hoa hồng dạng thuốc sắc giúp chữa đòn ngã tổn thương, bạch đới, di tinh. Đồng thời dùng hoa tươi và lá đắp ngoài. Lá cây còn dùng chữa bạch cầu lao. Lá, trái hồng sắc uống trị thấp khớp, nhọt, đái dầm, đái máu, tê thấp. Nụ hoa trị kinh nguyệt đau, tuần hoàn yếu, đau bao tử.
4. Cây đinh lăng
Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá, tên khoa học là Polyscias fluticosa (L.) Harms. Rễ cây có vị ngọt, lá vị nhạt, hơi đắng, tính bình có tác dụng bổ năm tạng, giải độc, bổ huyết, tăng sữa, tiêu thực, tiêu sưng viêm.
Thành phần hóa học: Trong rễ cây cóglucosid, alkaloid, saponin triterpen, tanin, 13 loại axit amin, vitamin B1, ngoài ra trong thân và lá cũng có những chất này nhưng ít hơn.
Đinh lăng dùng làm thuốc tăng lực, giúp tăng sức chịu đựng của cơ thể đối với các yếu tố bất lợi như kiệt sức, gia tốc, nóng. Đặc biệt, người ta dùng đinh lăng làm cho nhịp tim sớm trở lại bình thường sau khi chạy dai sức và giúp cơ thể chịu được sức nóng. Người bệnh bị suy mòn uống đinh lăng chóng phục hồi cơ thể, ăn ngon, ngủ tốt, tăng cân. Nó cũng làm tử cung co bóp mạnh hơn. Đinh lăng ít độc hơn nhân sâm và khác với nhân sâm, nó không làm tăng huyết áp.
Người ta dùng đinh lăng làm thuốc bổ, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu mệt mỏi, tiêu hóa kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ, thuốc lợi tiểu, chống độc. Lá cây còn chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương. Thân và cành chữa thấp khớp đau lưng. Ở Ấn Độ, người ta cho là cây có tính làm se, dùng trong điều trị sốt.
Cách dùng:Thường sử dụng ở dạng bột, ngày dùng 2g trở lên. Cũng có thể thái miếng phơi khô, ngày dùng 1-6g dạng thuốc sắc. Lá đem phơi khô lót gối hoặc trải giường cho trẻ em nằm để phòng bệnh kinh giật. Phụ nữ sau khi sinh uống nước sắc lá khô giúp cơ thể nhẹ nhõm, khỏe mạnh có nhiều sữa. Lá tươi 50-100g băm nhỏ dùng với bong bóng lợn trộn với gạo nếp nấu cháo ăn cũng lợi sữa.
Ở Campuchia, người ta còn dùng lá phối hợp với các loại thuốc khác làm bột hạ nhiệt và thuốc giảm đau. Lá dùng xông làm ra mồ hôi và chứng chóng mặt. Dùng lá tươi giã nát đắp ngoài trị viêm thần kinh và thấp khớp và các vết thương. Lá nhai nuốt nước với một chút phèn trị hóc xương cá. Vỏ cây nghiền thành bột làm thuốc uống hạ nhiệt.
Sống đời còn gọi là cây thuốc bỏng, lạc địa sinh căn, thổ tam thất, trường sinh, tên khoa học là Kalanchoe pinnata (Lam.) Pers.
Toàn thân cây có vị nhạt, chát, hơi chua, tính mát, có tác dụng giải độc, tiêu thũng, hoạt huyết chỉ thống, bạt độc sinh cơ.
Ngọn và lá sống đời non có thể thái nhỏ nấu canh ăn và dùng làm thuốc giải độc, chữa bỏng, đắp vết thương, đắp mắt đỏ sưng đau, đắp mụn nhọt và cầm máu. Do có tác dụng kháng khuẩn nên sống đời còn được dùng trị một số bệnh đường ruột và bệnh nhiễm trùng khác như viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, đi ngoài ra máu.
Ở Ấn Độ, người ta dùng lá cây này đắp trị bỏng, vết thương, mụn nhọt và các vết cắn đốt của côn trùng. Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng chữa ung sang thũng độc, viêm tuyến vú, đan độc, ngoại thương xuất huyết, đòn ngã, tổn thương, gãy xương, bỏng, viêm tai giữa.
Cách dùng: Lá tươi giã nát đắp hoặc vắt lấy nước bôi hàng ngày. Có thể dùng lá tươi 40g rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước hoặc hòa với nước chín rồi lọc lấy nước cốt để uống. Ngoài ra lá tươi giã nát vắt lấy nước, nhỏ vào tai chữa được bệnh viêm tai giữa cấp tính. Cũng nước lá tươi, thêm rượu và đường uống chữa bị ngã, bị thương thổ huyết.
2. Cây lô hội
Còn gọi là lưu hội hoặc nha đam, tên khoa học là Aloe vera L. Nhựa và lá cây có vị đắng, tính hàn, có tác dụng tiêu viêm, nhuận trường, diệt ký sinh trùng.
Nhựa lô hội thường dùng để trị kinh bế, kinh nguyệt ít, táo bón, đại tiện bí, sung huyết não, kinh phong. Người ta cũng dùng cả lá lẫn vỏ cây giã nhuyễn đắp lên để trị mụn nhọt sưng đỏ.
Ngoài ra dùng 10-15g lá, 1,5-3g nhựa dưới dạng viên hoặc nghiền thành bột đắp tại chỗ trị đau đầu, chóng mặt, táo bón, trẻ em co giật, suy dinh dưỡng, ho gà, sâu răng, viêm mủ da, Eczema.
Đặc biệt, lô hội có tác dụng trị vết cháy và bỏng rất nhanh.Có thể dùng lá cây chiết dịch xoa tại chỗ hoặc lấy một lá (15-18cm) đun sôi với nước, cho thêm đường vào uống để làm dịu đau rát và giúp vết thương mau lành. Tuy nhiên người bị yếu dạ dày, ruột và phụ nữ có thai không nên dùng.
Ngoài ra, có thể uống gel tươi, cách vài giờ uống một muỗng canh lúc đói giúp làm êm dịu vết loét dạ dày. Nhờ có chứa canxi, kali, kẽm, vitamin C, E là những tiền chất cơ bản đẩy nhanh tiến trình làm lành da, đặc biệt là canxi giữ vai trò quan trọng trong hệ thống thần kinh và mô cơ, chất xúc tác chính trong tất cả quá trình chữa lành vết thương, nên lô hội giúp rút ngắn thời gian làm lành mọi vết thương.
Bên cạnh đó, loài thực vật này còn có tác dụng chống viêm nhiễm, dị ứng hay trị vết sưng do côn trùng cắn. Do có chứa những hợp chất hữu cơ gồm vitamin, các hoóc môn, magie lactat có tác dụng ức chế phản ứng histamin, ức chế và loại trừ bradykinin là những thành phần gây dị ứng và viêm. Dịch lô hội tươi còn có tác dụng kháng khuẩn lao invitro và một số vi khuẩn thông thường gây nhiễm trùng da.
Lô hội còn có khả năng chống lão hóa tế bào vì chứa 17 amino axit cần thiết cho sự tổng hợp protein mô tế bào và canxi làm duy trì sự cân bằng giữa trong và ngoài tế bào, tạo ra các tế bào khoẻ mạnh. Thêm vào đó, photpho, đồng, sắt, magie, kali, natri có trong thân cây cũng là các yếu tố cần thiết cho sự trao đổi chất và các hoạt động của tế bào.
Trong dược học, lô hội cũng được dùng để giải độc cơ thể: Lignin trong lô hội có tác dụng như một chất xơ cuốn sạch các chất thải bị kẹt trong các nếp gấp của ruột; uronic axit loại trừ chất độc trong tế bào; kali cải thiện chức năng gan và thận là hai cơ quan chủ yếu của việc loại trừ chất độc trong cơ thể.
Lô hội còn có tác dụng dinh dưỡng và sinh năng lượng do chứa vitamin C thúc đẩy quá trình trao đổi chất, sinh năng lượng cần thiết và duy trì hoạt động miễn dịch, giúp phòng bệnh. Trong thân cây có các enzym cần thiết để phân giải đường, đạm, chất béo trong dạ dày và ruột.
Trong thành phần của lô hội chứa polysaccharid là acetylat mannose (acemannan) có tác dụng như là một chất kích thích miễn dịch rất hiệu quả, chống lại virus gây bệnh cúm, sởi và các giai đoạn sớm của hội chứng AIDS. Nó cũng có tác dụng chống lại một vài loại ung thư trên động vật, phần lớn là sarcoma và đang được khảo sát để điều trị ung thư trên con người.
Ngoài ra, lô hội còn có công dụng nhuận tẩy do có chứa các anthraquinon; giảm đau do viêm khớp; cân bằng đường huyết; phòng ngừa sỏi niệu; giảm đau do viêm khớp, đau cơ nhờ vào các anthraquinon phối hợp với canxi trong đường tiểu thành hợp chất tan được để tống ra ngoài theo nước tiểu.
Hiện nay trên thị trường, nhiều hãng mỹ phẩm dùng lô hội chiết xuất để sản xuất các loại kem bôi da, dầu gội, dầu xả, dầu khử mùi hôi, chất chống mốc, xà phòng, kem cạo râu,... Đặc biệt do pH của gel lô hội gần giống pH của da nên điều hòa được độ acid của da, làm da tươi tắn.
3. Hoa hồng
Còn gọi là cây hường hay bông hồng, tên khoa học là Rosa chinensis Jacq.
Hoa hồng có vị ngọt, tính ấm có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng. Hoa cho tinh dầu thơm dùng chế nước hoa. Hoa, rễ và lá được dùng làm thuốc.
Thành phần hóa học: Trong hoa có dầu với tỷ lệ 0,013-0,15%, mà thành phần chủ yếu gồm 1-citronellol, geraniol, phenethyl alcol, stearoptenes.
Người ta dùng 2-10g hoa hãm uống hoặc tán bột uống để chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, đinh nhọt, viêm mủ da, bệnh bạch hầu lao cổ. Bột hoa hồng còn có tác dụng cầm máu, chữa băng huyết, đi cầu lỏng. Dùng cẩn thận trong trường hợp tiêu hóa khó khăn, riêng người có thai không dùng.
Ngoài ra dùng10-15g rễ hoa hồng dạng thuốc sắc giúp chữa đòn ngã tổn thương, bạch đới, di tinh. Đồng thời dùng hoa tươi và lá đắp ngoài. Lá cây còn dùng chữa bạch cầu lao. Lá, trái hồng sắc uống trị thấp khớp, nhọt, đái dầm, đái máu, tê thấp. Nụ hoa trị kinh nguyệt đau, tuần hoàn yếu, đau bao tử.
4. Cây đinh lăng
Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá, tên khoa học là Polyscias fluticosa (L.) Harms. Rễ cây có vị ngọt, lá vị nhạt, hơi đắng, tính bình có tác dụng bổ năm tạng, giải độc, bổ huyết, tăng sữa, tiêu thực, tiêu sưng viêm.
Thành phần hóa học: Trong rễ cây cóglucosid, alkaloid, saponin triterpen, tanin, 13 loại axit amin, vitamin B1, ngoài ra trong thân và lá cũng có những chất này nhưng ít hơn.
Đinh lăng dùng làm thuốc tăng lực, giúp tăng sức chịu đựng của cơ thể đối với các yếu tố bất lợi như kiệt sức, gia tốc, nóng. Đặc biệt, người ta dùng đinh lăng làm cho nhịp tim sớm trở lại bình thường sau khi chạy dai sức và giúp cơ thể chịu được sức nóng. Người bệnh bị suy mòn uống đinh lăng chóng phục hồi cơ thể, ăn ngon, ngủ tốt, tăng cân. Nó cũng làm tử cung co bóp mạnh hơn. Đinh lăng ít độc hơn nhân sâm và khác với nhân sâm, nó không làm tăng huyết áp.
Người ta dùng đinh lăng làm thuốc bổ, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu mệt mỏi, tiêu hóa kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ, thuốc lợi tiểu, chống độc. Lá cây còn chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương. Thân và cành chữa thấp khớp đau lưng. Ở Ấn Độ, người ta cho là cây có tính làm se, dùng trong điều trị sốt.
Cách dùng:Thường sử dụng ở dạng bột, ngày dùng 2g trở lên. Cũng có thể thái miếng phơi khô, ngày dùng 1-6g dạng thuốc sắc. Lá đem phơi khô lót gối hoặc trải giường cho trẻ em nằm để phòng bệnh kinh giật. Phụ nữ sau khi sinh uống nước sắc lá khô giúp cơ thể nhẹ nhõm, khỏe mạnh có nhiều sữa. Lá tươi 50-100g băm nhỏ dùng với bong bóng lợn trộn với gạo nếp nấu cháo ăn cũng lợi sữa.
Ở Campuchia, người ta còn dùng lá phối hợp với các loại thuốc khác làm bột hạ nhiệt và thuốc giảm đau. Lá dùng xông làm ra mồ hôi và chứng chóng mặt. Dùng lá tươi giã nát đắp ngoài trị viêm thần kinh và thấp khớp và các vết thương. Lá nhai nuốt nước với một chút phèn trị hóc xương cá. Vỏ cây nghiền thành bột làm thuốc uống hạ nhiệt.