PDA

View Full Version : Có thượng đế hay không? Thượng đế đang ở đâu?



aiquocv
03-20-2011, 11:22 AM
Lời Đức Hộ Pháp:

“Mình cũng là một vật của toàn vạn vật trong
vũ trụ, nếu mình không biết Thượng Đế thì
mình lại chẳng biết mình…”

Diễn văn của Đức Hộ Pháp
đọc tại Tòa Thánh Tây ninh
15-7 Nhâm thân/16-8-1932

2 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?
TIỂU DẪN

Trước khi đi vào đề tài này chúng ta cần có một tín niệm
tiên quyết rằng “Thượng Đế là Đấng tự hữu và hằng hữu”.
Vì trong Tam kỳ Phổ độ Thượng Đế đã khải thị rằng:
“Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì khí Hư vô
sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái cực… Thầy
phân Thái cực ra Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sanh Tứ tượng.
Tứ tượng biến Bát quái, Bát quái biến hóa vô cùng mới lập
ra Càn khôn Thế giới.” (TNHT /Q2 / tr. 62)

Câu này có nghĩa là Thượng Đế từ Hư vô chi khí mà có.
Ngôi của Ngài là một khối Thái cực, Ngài mới phân Thái
cực ra Lưỡng nghi (Âm Dương), Âm Dương sinh Tứ tượng
(Thái dương, Thiếu âm, Thái âm Thiếu dương), Tứ tượng
sinh Bát quái, tức là Tám hiện tượng đó là: Càn: Trời, Khôn:
Đất, Chấn: Sấm chớp, Tốn: Gió, Khảm: Nước, Ly: Lửa, Cấn:
núi, Đoài: ao đầm. Từ Tám hiện tượng này vận chuyển mà
biến hóa vô cùng mới tạo lập ra vũ trụ và vạn hữu chúng
sinh.

Đây là một vấn đề vô cùng huyền bí, nằm trong phạm trù
Vũ trụ quan của triết học Đông phương … Từ xưa đến nay
nhiều Giáo chủ, nhiều Triết gia đã bàn luận giải đáp, nhưng
vẫn còn là vấn đề bí ẩn bất tận. Nên nếu chúng ta chấp nhận
những tín niệm tiên quyết nêu trên đây, thì mới có thể cùng
nhau tìm hiểu đề tài nầy.

Còn có nhiều trường phái căn cứ vào giác quan, hễ cái gì
mắt thấy tai nghe mới cho là có thật, nên họ cho rằng không
có Thượng Đế, mà Thượng Đế chỉ là một sản phẩm tưởng
tượng. Ngay con người họ cũng chẳng biết mình là ai, và
cũng cho con người là một sản phẩm tình cờ ngẫu nhiên của
vật chất, đời sống con người chỉ ngắn ngủi từ chiếc nôi đến
nấm mồ là hết. Vì đã không tin có Thượng Đế, thì mọi sự vật

3-CÓ THƯỢNG ĐẾ HAY KHÔNG?

đối với họ làm gì có ý nghĩa vĩnh cửu và trường tồn. Sự kiện
này Đức Hộ Pháp đã nói rằng:

“Mình cũng là một vật của toàn vạn vật trong vũ trụ,
nếu mình không biết Thượng Đế thì mình lại chẳng biết
mình…” (Diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh Tây
ninh ngày 15 tháng 7 Nhâm thân / 16-08-1932).

Trong thực tế khi gạt bỏ Thượng Đế, thì cũng chính là
lúc con người tự phủ nhận chính mình. Còn với niềm tin có
Thượng Đế, thì sự sống con người sẽ có ý nghĩa cao cả, và
đời sống trở nên có mục đích, từ đó con người sẽ hưởng
được chân hạnh phúc.

Đối với niềm tin Thượng Đế thì tùy theo thời đại và địa
phương mà nhân loại tôn xưng Ngài bằng nhiều ngôn từ
khác nhau đó là: Jéhova, Brhama, Allah, Đức Chúa Trời,
Thượng Đế, Tạo hóa, Hóa công…

Các tài liệu sưu tập sau đây, cốt cho chúng ta suy lý cảm
nhận sự hiện hữu của Thượng Đế, và lắng nghe được những
huyền âm vi diệu của Ngài đang phát xuất trong lương tâm
của mỗi con người.

QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ THƯỢNG ĐẾ
TRONG CÁC TÔN GIÁO

Đối với bản thể và quyền năng của Thượng Đế thì bàng
bạc vô cùng, mỗi tôn giáo đều dựa trên những cơ sở khác
nhau để diễn tả một phần nào đó, hầu đáp ứng cho những
nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân loại, tùy theo đối
tượng, tùy theo địa phương và trình độ tiến hóa của con
người ở từng thời đại.

Ngay Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo không gọi đích
xác rằng Thượng Đế là Người tạo dựng ra vũ trụ vạn hữu,
nhưng Đức Thích Ca đã gọi cái sinh ra pháp giới chúng sanh

4 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

là Chân như, Đức Lão tử gọi là Đạo, Đức Khổng tử gọi là Lý
Thái cực, không phải các Ngài phủ nhận Thượng Đế, mà các
Ngài muốn thức tỉnh chúng sanh ở thời điểm đó, không nên
tôn thờ đa thần và ỷ lại vào thần quyền.

Vì theo tín niệm chung nhân loại trong thời đại của các
Ngài thường tin vào đa thần, hoặc nếu có tin tưởng vào
Thượng Đế thì cũng có một định kiến rằng Thượng Đế là
một người có quyền lực vạn năng, quyết định mọi sự một
cách độc đoán, nên các Ngài muốn giáo hóa cho con người
thời đó đừng ỷ lại vào thần quyền hay tin tưởng vào đa thần
một cách mê tín dị đoan, mà khuyên con người phải ăn ở
đúng với Thiên lý, Chân tâm, Phật tánh, đúng với lương tâm
và lòng trắc ẩn sẵn có nơi chính mình, như vậy có nghĩa là đã
phụng sự Thượng Đế và như thế mới hưởng được phước
lành, chứ không phải chỉ cầu khẩn suông nơi Thượng Đế hay
tin tưởng vào nhiều thần linh từ bên ngoài mà có được hạnh
phúc chân thật.

Đối với bản nguyên và quyền năng của Thượng Đế, trên
thế gian chưa có Đấng Giáo chủ nào giảng giải rõ ràng được
căn nguyên nguồn cội của Ngài, cũng như diễn tả được hình
thể của Ngài, vì Ngài là nguồn sống của vũ trụ vạn hữu, nên
hình thể của Ngài cũng có thể nói là hình thể của cả vũ trụ và
vạn hữu chúng sanh, nên không thể lấy một con người hay
một vật thể nào để tượng trưng cho Ngài được. Vì con người
chỉ là hột cát trong bãi sa mạc, là một phần tử cực kỳ nhỏ bé
so với nguồn sống bao la của đất trời, đời sống lại vô cùng
ngắn ngủi so với sự vĩnh hằng của Tạo hóa.

Chính các vì Giáo chủ là bậc Đại giác ngộ, nhưng cũng
không thể nào dùng văn tự và ngôn ngữ hữu hạn của con
người để giảng giải rõ ràng. Ngay như Đức Phật khi giảng
giải về Chân như, là cái tạo ra pháp giới chúng sanh, nhưng
Ngài cũng dùng những ngôn từ lơ lửng như: cũng có, cũng
không, không phải có, không phải không, cũng đồng, cũng
khác, không phải đồng, không phải khác… hoặc là những

5-CÓ THƯỢNG ĐẾ HAY KHÔNG?

điều ta biết như lá trong rừng, và cái ta nói ra được như nắm
lá trong tay này… (Theo Thủ Lăng Nghiêm).

Theo Đức Lão Tử thì Đạo tạo dựng ra vũ trụ, sanh hóa và
hàm dưỡng vạn linh, nhưng Ngài không biết gọi tên cái đó
bằng gì, nên đặt tên là Đạo, gượng gọi tên đó là lớn (Tự chi
viết Đạo cưỡng chi danh viết Đại), và khi Ngài nói về Đạo,
cũng nói rất là thận trọng và khiêm tốn, thường dùng cách
nói lơ lửng như: có lẽ (tượng), giống như (tự), hình như
(nhược), hoặc là (hoặc)… Ngài cũng xác nhận rằng Đạo cũng
như vũ trụ vô cùng huyền bí, không thể hiểu được và giảng
giải được, nên trong Đạo đức kinh Ngài đã nói rằng:

“Đạo khả đạo phi thường đạo” (Đạo đức kinh / Thiên
thượng).

Có nghĩa là cái Đạo mà đã diễn tả ra được bằng lời nói,
thì không phải là cái Đạo thường hằng bất biến. Vì theo Đức
Lão Tử cho Đạo là bản nguyên của vũ trụ, nó vô cùng huyền
bí cao siêu, không thể dùng lời nói mà diễn tả được. Chính
Ngài cũng không biết tên là gì nên gượng gọi Đạo mà thôi.

Còn đối với Nho giáo, các vấn đề huyền bí về vũ trụ và
nhân sinh, Đức Khổng tử chỉ đề cập đến trong khi sang định
kinh Dịch (Thiên đạo) và kinh Xuân thu (Thế đạo). Phần này
chỉ dành cho những đệ tử có kiến thức đặc biệt tự lãnh hội
lấy mà thôi, chứ Ngài không đem dạy rộng rãi cho mọi
người. (Theo Nho giáo của Trần Trọng Kim).

Đối với các vị Giáo chủ là những bậc nhận thiên mệnh
của Thượng Đế xuống thế gian để độ rỗi chúng sanh, mà các
Ngài không thể dùng ngôn ngữ của con người để giảng giải
rõ ràng các vấn đề huyền bí của Tạo hóa. Nên các Ngài đành
giữ im lặng, xa lìa văn tự, nhưng nếu không nói gì, thì làm
sao cứu độ chúng sanh, nên các Ngài phải tùy thời, tùy trình
độ hiểu biết của nhân loại mỗi nơi, mỗi thời kỳ mà nói,
nhưng nói một cách lơ lửng như Đức Phật, hay rất khiêm tốn
như Đức Lão tử hoặc chỉ nói đến phần thể dụng thiết thực

6 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

như Đức Khổng tử; cốt để gợi ý cho con người lắng nghe
tiếng gọi của Thượng Đế từ nơi tâm linh của mình mà thôi.
Quan niệm về Thượng Đế trong các tôn giáo, cũng như
ngoài nhân gian, tuy có khác nhau, nhưng xét cho cùng, thì
đều có một mục đích là đả phá những mê tín của chúng sanh
trong một thời điểm, và ở một địa phương nào đó; nên những
quan niệm đó cũng có giá trị giới hạn nhứt định, thích hợp
với từng địa phương và từng thời đại, nếu ta nhắm vào
những giáo lý cổ xưa của một thời đại nào đó tại một địa
phương này, để kích bát và đả phá những giáo lý đã được
phổ cập ở một địa phương khác, ở một một thời đại khác, đó
là điều không thức thời. Cũng như dùng một quyền lực nào
đó, để bắt buộc mọi người ở mọi nơi phải nghe theo những
giáo lý đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự tiến hóa của
con người, thì đó là một sự cuồng tín nguy hiểm, cũng như vì
tham quyền cố vị cố duy trì lại những giáo lý cũ kỹ để củng
cố quyền lực, ngăn cản không cho các giáo lý mới mẻ tiến bộ
lưu hành, thì cũng là một điều tai hại, trái với quan niệm của
Nho gia là:

“Muôn vật cùng sinh trưởng mà không xâm hại lẫn
nhau, các đạo cùng lưu hành mà không phản bội lẫn nhau
(Vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại, đạo lý tịnh hành nhi bất
tương bội/Trung dung).

Xã hội loài người hiện đang tồn tại, thì niềm tin vào
Thượng Đế cũng đang tồn tại, nhưng có từng thứ bậc là điều
cần thiết, người tin vào Thượng Đế hiện hữu khắp mọi nơi,
không nên cho người tin Thượng Đế ngự trên Trời cao, là
sai, vì đó cũng là một quan điểm đúng, nhưng đúng với
những người mới có niềm tin, và niềm tin này đang trên con
đường đi đến chân lý tuyệt đối.

Còn các tôn giáo không dùng danh xưng Thượng Đế để
chỉ Đấng tạo lập vũ trụ, mà họ đã tin rằng có “Một Cái Gì

7-CÓ THƯỢNG ĐẾ HAY KHÔNG?

Đó” đã vận hành bằng “Một Cách Nào Đó” để tạo ra vạn
hữu chúng sanh như Phật giáo gọi là Chân như, Lão giáo gọi
là Đạo và Nho giáo gọi là Thái cực, cũng không phải là một
quan niệm vô thần, mà họ cũng thừa nhận Thượng Đế dưới
một danh xưng khác mà thôi. Nghĩa là niềm tin này không
phủ nhận niềm tin khác, mà chỉ là sự hoàn mãn cho niềm tin
khác.

aiquocv
03-20-2011, 11:30 AM
QUAN NIỆM VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA THƯỢNG
ĐẾ TRONG GIÁO LÝ CÁC TÔN GIÁO

Tất cả các tôn giáo đều tin tưởng đã có một Đấng
Thượng Đế tự hữu và hằng hữu, nhưng Ngài đang ở đâu?
Ngự trị nơi nào? thì mỗi tôn giáo tùy theo thời điểm khai
sáng và trình độ giáo chúng mỗi nơi mà lại có những lý giải
khác nhau.

Đa số những tôn giáo theo học phái nhị nguyên, tin
tưởng rằng Thượng Đế là Đấng tạo lập ra vũ trụ và vạn hữu
chúng sanh, theo học thuyết này thì tuy Thượng Đế không có
thể xác nhưng cũng có nhân cách đức hạnh như con người,
Ngài vô cùng từ bi, bác ái và công bình… Ngài toàn năng và
đầy quyền lực, con người có thể cầu nguyện với Ngài,
thương yêu Ngài, và được Ngài đáp lại… Theo quan niệm
này thì Thượng Đế có tính cách con người, nhưng Ngài vô
cùng cao cả, không có những tật xấu như con người. Ngài
đang ngự trị trên Trời cao, đang cách biệt với thiên nhiên và
con người, đa số giáo chúng của các tôn giáo này đã tin
tưởng nơi một Thượng Đế cao cả luôn yêu thương họ, nhưng
lại ở quá xa cách với họ, vì một con người bình thường
không thể suy nghĩ đến việc gì không cụ thể, mà tự nhiên họ
thích bám lấy cái gì mà trí năng họ có thể hiểu được. Nên
trong lúc giảng dạy về một môn đồ chân chính Đức Chúa
Jésus đã phán với giáo chúng trong thời đại của Ngài rằng:

8 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

“Chẳng phải nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà vào được
nước Đức Chúa Trời, nhưng chỉ ai làm theo ý muốn của Cha
Ta trên Trời thì mới vào được nước Người (Thánh kinh Tân
ước/ Mat 7:21).

Phần đông giáo chúng của các tôn giáo trên thế giới, nhất
là ở Âu châu, Tây Á đều tin tưởng rằng Thượng Đế ngự trên
trời, nên tùy theo trình độ của giáo chúng thời bấy giờ mà
Chúa Jésus đã phán dạy họ như vậy.

Còn một số tôn giáo khác nhất là phương Đông thuộc
học phái phi nhị nguyên cũng đã tin tưởng bản thể và quyền
năng của Thượng Đế đại khái như vậy, nhưng lại dung hòa
hơn, giáo thuyết này cho rằng Thượng Đế là Đấng Tạo hóa,
nhưng chất liệu tạo vật cũng chính là Ngài, nói một cách
khác chính Ngài cũng là nguyên nhân là cội nguồn của vật
chất tạo ra vạn hữu, cho nên học thuyết này cho rằng Thượng
Đế hiện hữu khắp mọi nơi, thấm nhuần trong vạn hữu … từ
những đại tinh cầu trong không gian cho đến những vầng đá
nằm sâu dưới mấy tằng địa chất đều có mặt của Ngài …
Ngài hiện hữu trong tâm hồn của chúng sanh, từ hạng thượng
lưu trí thức cho đến hạng khốn khổ cùng đinh, nên người xưa
mới có câu:

“Nhân tâm sanh nhứt niệm, thiên địa tất giai tri (tâm con
người suy nghĩ điều gì thì trời đất đều biết).

Theo học thuyết này thì con người do Thượng Đế tạo
dựng cả linh hồn lẫn thể chất, con người luôn luôn tiến lên
theo hướng tấn hóa, nhanh hay chậm tùy theo sự tinh tấn của
mỗi cá thể, và cuối cùng mỗi linh hồn cũng hưởng được sự
cứu rỗi của Thượng Đế, dù là côn trùng thảo mộc thấp kém
nhất, cho đến những thần thánh cao cả nhất, sớm muộn gì tất
cả cũng sẽ đạt đến một thế giới nơi đó hạnh phúc sẽ vô biên,
và họ sẽ không còn luân hồi sinh tử, mãi mãi sống bên cạnh
Thượng Đế.

9-CÓ THƯỢNG ĐẾ HAY KHÔNG?

QUAN NIỆM SỰ HIỆN HỮU CỦA THƯỢNG
ĐẾ THEO CAO ĐÀI GIÁO

Trong Tam kỳ Phổ độ đại đa số giáo chúng Cao Đài
cũng có một niềm tin về Thượng Đế, giống như của tín đồ
các tôn giáo nêu trên… Vì đây là một niềm tin phổ quát lưu
truyền qua lâu đời, nó đã trở thành một niềm tin vĩ đại,
nhưng ngày nay Đức Chí Tôn đã khải thị cho chúng ta một
học thuyết nhất nguyên đó là:

“Thầy tức là các con, các con tức là Thầy,” (TNHT /
Q1/ trang 8).

Theo khải thị này thì chúng ta phải hiểu rằng: Thượng
Đế và Vũ trụ cùng Vạn hữu chúng sanh là “Một”, nghĩa là
Thượng Đế và Chúng sanh không phải là hai thực tại riêng
biệt. Học thuyết này đã được Thượng Đế khải thị trong triết
học Vedanta tối cổ của Ấn độ vào Nhứt kỳ Phổ độ, ngày nay
chỉ còn những bậc có tuệ giác trong một số tôn giáo hiểu
được mà thôi. Đây là một học thuyết thượng thừa, đối với
giáo chúng trình độ trung bình rất khó lãnh hội.

Như vậy trong Tam kỳ Phổ độ ngày nay, chúng ta có thể
hiểu rằng Đấng Thượng Đế của cõi trời, cũng là Thượng Đế
trong thiên nhiên, và Đấng Thượng Đế trong thiên nhiên
cũng chính là Thượng Đế trong con người. Theo học thuyết
này thì vũ trụ thiên nhiên và chúng sanh đều là “Hiện thân
của Thượng Đế”. Nói tóm lại ngay cả côn trùng thảo mộc hễ
cái gì có “Sự Sống” là có Thượng Đế trong đó. Điều này
trong Tam kỳ Phổ độ Đức Chí Tôn cũng đã dạy rằng:
“Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ
có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống … Cái sống của
chúng sanh, Thầy phân phát khắp càn khôn thế giới… ”
TNHT / Q2 / Tr. 62.

10 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

Theo khoa học thực nghiệm đã chứng minh rằng những
giọt nguyên sinh chất (Protoplasma) trong suốt, gần như vô
hình, mắt ta không thể nhìn thấy, mà nó di động nhờ hấp thu
sinh khí thái dương. Chính cái tế bào đơn độc này chứa mầm
sống của muôn loài, là cội nguồn của sự sống theo khoa học
thực nghiệm. Tự nó không có thể tạo ra sự sống được, vậy
thì sự sống từ đâu mà đến? Như vậy “Sự sống” này chắc
chắn là do bởi Thượng Đế, và chắc chắn là có Ngài ẩn tàng
trong đó.

Điều này chúng ta còn nhận thấy trong những kinh
Upanisads tối cổ của Ấn độ cũng đã đề cập đến:
“Tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ này đều được
Thượng Đế bảo bọc”.

Đây chính là tư tưởng mà Thượng Đế đã khải thị cho
loài người rất sớm. Nên vì thế chúng ta phải bảo tồn vạn linh
cùng với Thượng Đế, bằng con mắt nhìn thấy Thượng Đế
một cách thật sự trong mọi sự sống, hễ cái gì có sự sống
là có Ngài. Chính Thượng Đế ở trong từng cánh hoa, trong
đứa trẻ sơ sinh, trong người vợ, người chồng, chính Ngài
hiện hữu trong người thiện và trong kẻ ác, Ngài ở trong
người tội lỗi và trong kẻ phạm tội, trong sự sống và sự
chết… đó là sự tồn tại của “chân ngã”.

Một Chơn sư đã dạy đệ tử rằng:

“Con phải tập phân biện Thượng Đế trong mình các
loài vật, dầu chúng nó thật xấu xa… Con cũng có thể giúp
đồng bào con luôn luôn là nhờ con với họ trong mình đồng
chung có Chơn thần của Đức Thượng Đế. Con hãy học hỏi
cách thức tỉnh Chơn thần đó trong người
họ…”(Krishnamurti / Dưới Chân Thầy).

Toàn thể vũ trụ này là một “Tồn tại” thuần nhứt về mọi
phương diện vật chất, tinh thần, đạo đức và tâm linh. Chúng
ta đang nhìn thấy cái Tồn tại này trong nhiều hình thức khác
nhau, đó là một Linh hồn độc nhứt vô nhị trong vũ trụ, đó
chính là Thượng Đế đang tồn tại thường xuyên trong vạn
hữu. Nếu Thượng Đế không tồn tại trong vạn hữu ngay trong
hiện tại, thì không bao giờ Ngài tồn tại trên trời cao, trong
quá khứ và cũng sẽ không bao giờ Ngài tồn tại trong tương
lai.

Lời khải thị của Đức Chí Tôn đã cho chúng ta thấy rằng
từ lâu con người ngay cả những bậc triết nhân, sau khi luống
công tìm kiếm Thượng Đế bên ngoài bản thân, đã hoàn tất
vòng tròn và trở lại ngay điểm khởi hành của mình, linh hồn
con người, và đã nhận rằng Đấng Thượng Đế mà con người
đã đi tìm khắp các núi đồi thung lũng, trong các đền thờ, và
trên tận trời xanh…, Đấng Thượng Đế mà con người tưởng
tượng như là Đấng đang ngồi trên thiên đường mà ngự trị thế
gian, chính là “Chân ngã”. Nên con người bấy giờ có thể nói
tôi là đền thờ của “Ngài” và Ngài luôn ngự trong “Tôi”.
Đúng như lời Đức Chí Tôn khải thị:

“Thầy tức là các con, Các con tức là Thầy”.

aiquocv
03-20-2011, 11:31 AM
Khi quan niệm trong mỗi con người có một Đấng
Thượng Đế hoàn hảo như vậy, thì làm sao con người có thể
lầm lạc như cái tôi “phàm ngã” được. Khi con người đã nhìn
thấy Đấng Thượng Đế của vũ trụ ngự trong tâm họ thì mọi
thứ ngăn cách sẽ không còn nữa, khi mà tất cả nam nữ, thần
thánh, cây cỏ, muôn thú và toàn thể vũ trụ đã dung hòa trong
“thuần nhất” thì làm gì còn có sợ hải, ganh ghét, vì con
người có bao giờ phải sợ chính mình không? Chừng đó mọi
khổ đau, mọi tư tưởng xấu xa sẽ tan biến, và con người
không có thể có những tư tưởng phân biệt ta với người khác,
bởi vì chính “Tôi” là tồn tại duy nhứt của vũ trụ. Cái gì tôi
làm cho người khác cũng là làm cho chính tôi.

Học thuyết nhất nguyên mà Thượng Đế đã khải thị cho
loài người rằng:

“Thầy tức là các con, các Con tức là Thầy”.

12 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

Câu này đã rao giảng cho mọi người năm nội dung sau
đây:

Khi hiểu rằng con người là một với Thượng Đế, và với
tư cách đó thì mọi linh hồn hiện hữu là linh hồn của bạn, và
mọi thể xác hiện hữu là thể xác của bạn, và nếu khi bạn làm
tổn thương bất cứ người nào khác, là bạn tự làm tổn thương
lấy mình; khi thương yêu bất cứ người nào, tức là mình tự
thương yêu chính mình vậy. Khi mà luồng thù hận được tung
ra ngoài, dù nó làm tổn thương ai đi nữa, thì trước nhất nó
cũng vẫn làm tổn thương chính là bạn.

Khi anh đã nhìn thấy Thượng Đế tính trong vợ anh, con
anh, bạn hữu của anh, và những người sống trong cộng đồng
với anh, và khi anh đã biết rằng Thượng Đế ngự trong họ, thì
làm sao anh có thể phân biệt đối xử, bỏ bê, tệ bạc, với họ
được. Vì con người là Đấng Vô biên, nhưng sở dĩ có như vậy
tại vì con người chưa ý thức được điều đó, nhưng con người
đang trên đường phấn đấu đạt đến ý thức đó, và khi họ ý
thức trọn vẹn về Đấng Vô biên này hiện hữu ngay trong họ,
con người cũng sẽ đi đến sự hoàn mỹ và hoàn toàn tự do.
Một người có đức tin sơ cơ, mới bắt đầu tin vào Thượng
Đế, người đó tin rằng mỗi một lần nguyện cầu đã được một
Đấng nào đó đáp ứng, nhưng chính ra con người đã tự đáp
ứng sự nguyện cầu của mình, mà mình không biết, những
người này có thể nói “Lạy Chúa, con là một kẻ tội lỗi khốn
nạn” nhưng ai sẽ giúp họ, mà chính con người là sự trợ giúp
của chính mình. Vì Con người với Thượng Đế của vũ trụ là
Một, thì sự trợ giúp trước nhất phải chính từ bản thân con
người. Cũng như con tằm đã xây cái kén quanh mình nó, thì
ai sẽ cứu nó? Mà chính nó phải tự bức phá cái kén, mà bay ra
ngoài làm một con bướm tốt đẹp, như một linh hồn tự do, chỉ
lúc đó con người mới thấy được chân lý.

Khi con người hiểu và phấn đấu đạt được như vậy, họ sẽ
tự nhũ với bản thân: “Ngài luôn hiện hữu trong tôi” đó là
những từ ngữ sẽ xua tan những bạc nhược còn trong tinh
thần của mình, những từ ngữ này hiển lộ một nghị lực khủng
khiếp đã có sẵn trong con người, cái năng lực vô biên đó
đang ngủ trong tâm linh mỗi con người. Theo Yoga thượng
thừa, thì đây là luồng Hỏa xà (Kundalini) nằm cuộn khúc
trong đốt sống vùng eo lưng, gần huyệt mạng môn hỏa của
khoa châm cứu học, chính là điểm linh quang của Thượng
Đế ban cho con người, hay nói một cách khác là Thượng Đế
đang ẩn tàng trong con người. Theo Yoga thì khi luồng hỏa
xà này đã được sự giác ngộ lay tỉnh và trườn lên đến tận đỉnh
đầu, thì con người sẽ đạt được những quyền năng siêu phàm.
Khi một con người đạt đến trình độ cao nhứt là nhận
chân được Thượng Đế tính ngay trong chính mình, thì khi đó
họ không còn phân biệt chủng tộc, màu da sắc tóc, giai cấp,
tín ngưỡng tôn giáo, không còn phân biệt giới tính, trọng
nam khinh nữ, không còn kỳ thị thân sơ, không còn thị phi
ân oán, hoặc bất cứ một phân biệt nào giữa ta và người …
vượt qua tất cả để đoàn kết tương thân, là lúc họ đã nhận
thấy con người thật nằm ngay bên trong con người.
Nói chung đối với vấn đề tín ngưỡng Thượng Đế, bất kỳ
dưới hình thức nào, từ đơn giản như trong nhân gian, hay có
một hệ thống triết học phong phú như trong các tôn giáo. Dù
tin Thượng Đế là một Đấng tối cao ở một thế giới xa xăm
nào đó, hay tin rằng Thượng Đế luôn hiện hữu trong tâm
khảm mỗi người. Cho đến những người không tin có Thượng
Đế nhưng vẫn còn tin tưởng vào lương tâm của mình. Dù
không tôn thờ Thượng Đế, mà biết sùng bái tổ tiên, hiếu kính
cha mẹ, thương yêu mọi người. Đối với tất cả niềm tin này
cũng đều chánh tín và hữu ích cả, vì theo chơn truyền của
Tam kỳ Phổ độ thì họ cũng đã tin vào Thượng Đế, bởi
Thượng Đế hiện hữu trong tất cả.

Khi con người có một đức tin Thượng Đế như vậy, thì
họ mới biết thành kính và thương yêu, mà khi đã thành kính
thương yêu, thì mới biết giữ mọi hành tàng của mình trong
14 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?
sạch, để khỏi bị lương tâm cắn rứt tức là bị Thượng Đế trừng
phạt, và từ đó chúng ta sẽ có một mẫu số chung, đó là sự
thanh bình an lạc cho mọi người. Nói cho cùng thì tất cả mọi
cố gắng của các tôn giáo, cũng chỉ nhắm mục đích hướng
thiện, để con người có được sự an lạc cho bản thân, an lạc
cho gia đình, bình an cho xã hội, thanh bình cho thế gian mà
thôi.

Chúng ta chỉ sợ cho những hạng người không tin tưởng
gì cả, đã không tin tưởng ở Thượng Đế mà cũng không kể
đến sự hiện hữu của lương tâm, thì đó mới chính là những kẻ
không những gây tai họa cho bản thân, mà còn gây tai họa
cho gia đình, cho đất nước và cho cả xã hội loài người nữa.
Vì những lý do nêu trên, nên tất cả niềm tin vào Thượng
Đế đang tồn tại, có từng thứ bậc là điều cần thiết, chúng ta
hãy để cho mỗi người được tự do theo đuổi quan điểm của
mình, đừng làm tổn thương, đừng phủ nhận niềm tin của ai
hết, bạn hãy chấp nhận quan điểm của mỗi người từ vị trí của
họ, đừng đả kích, phá hoại hay làm thương tổn đến niềm tin
về “Đấng Đã Tạo Lập Nên Vũ trụ” của họ, và nếu có thể bạn
hãy giúp họ một tay để nâng quan điểm của họ lên một vị trí
cao hơn. Tất cả lâu ngày chầy tháng, sau cùng họ cũng sẽ đi
đến chân lý nhất nguyên tuyệt đối là:

“Thượng Đế Vũ trụ và vạn hữu chúng sanh là Một”.
Có nghĩa là Thượng Đế cũng là Tạo vật, và Tạo vật
cũng là Thượng Đế.

Vì những lý do nêu trên mà người tín đồ đồ Cao Đài
giáo tuân thủ quy giới của Tam giáo, vâng theo lời dạy của
các vì Giáo chủ, và luôn tôn trọng mạng sống của chúng
sinh. Vì tất cả đều phát xuất từ một chân lý tối thượng, đó là
Thượng Đế, một Đấng hiện hữu ở khắp mọi nơi.

KẾT LUẬN

Tóm lại theo chơn truyền Cao Đài giáo, Thượng Đế là
Đấng Chủ tể tột phẩm của vũ trụ vạn vật, nên gọi là Đấng
Chí Tôn, và cũng là Đấng Cha Lành chung của muôn loài,
nên còn gọi là Đại Từ phụ, bởi vì đó là Đấng trên tất cả, của
tất cả, và trong tất cả. Vì thế Cao Đài giáo tin tưởng Thượng
Đế là Đấng luôn luôn hiện hữu trong mọi sự sống, vì mặc dù
Ngài vô hình nhưng thống suất cả hiện tượng giới lẫn siêu
linh giới, mặc dù bàng bạc vô sở trú, vô định xứ, nhưng biến
hóa vô cùng, ngự trị cả không gian và thời gian, làm chủ cả
tinh thần lẫn vật chất. Soi dẫn, chỉ đạo, hàm dưỡng, phán xét
và chủ trì mọi quy luật, mọi sự vật…

Từ đức tin nầy, chúng ta tin rằng mọi người trong thế
giới trước sau gì cũng sẽ tin tưởng vào học thuyết nhất
nguyên: “Thượng Đế vũ trụ và con người là Một”. Khi con
người đã thấm nhuần được đạo lý này, thì từ đó sự hoạt động
của một ảnh hưởng Thượng Đế đồng nhứt, và sự khai triển
của một Thượng Đế tính đồng nhứt trong tâm hồn mỗi người
sẽ được biểu hiện, từ đó cõi lòng họ sẽ trong sạch và rộng
mở, và chỉ có như vậy con người mới giải thích rõ ràng được
mọi nguyên nhân và cứu cánh của tất cả luân lý, tất cả đạo
đức và tất cả tâm linh trong vũ trụ.

Trong Tam kỳ Phổ độ, Đức Chí Tôn đã khải thị cho
chúng ta biết rằng, tất cả nhân loại trên thế giới trước sau gì
cũng phải đi đến đại đồng trong tình huynh đệ, đó là trọng
tâm của sự Cứu rỗi lần thứ ba, kéo dài đến thất ức niên (bảy
trăm ngàn năm), và kỳ vọng này Thượng Đế đã đặt để nơi
chúng ta:

“Trong Tam kỳ Phổ độ này, các con phải độ rỗi nhân
loại khắp cả năm châu, thì trách nhiệm ấy lớn lao là bực
nào?” (TNHT / Q1 / Tr. 32).

16 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

Tức là kỳ vọng của Đức Chí Tôn đã gởi gắm nơi chúng
ta cái thiên trách, về Thiên đạo là tạo cho mọi linh hồn được
giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử, về Thế đạo là đưa nhân
loại đến đại đồng trong tình huynh đệ. Như vậy Cao Đài giáo
phải đạt đến mục đích tối cao tối trọng là thực hiện một:


“Thiên đạo công bình giải thoát”
Và một:

“Thế đạo nhơn nghĩa đại đồng”.
STTT