aiquocv
03-20-2011, 11:40 AM
Trong hơn 40 năm thuyết pháp độ sinh, Đức Phật chỉ dùng lời nói dạy mọi người nghe chớ không dùng chữ viết để truyền lại, cho nên sau khi Phật nhập Niết-Bàn, trong giáo-hội có nhiều ý tưởng sai khác, bất đồng về giáo-nghĩa và giới luật, khiến phát sinh ra nhiều bộ phái chống đối nhau; bộ phái nào cũng cho tư tưởng và lập luận của mình là đúng đắn và chân chánh, y như lời Phật dạy. Cuộc tranh chấp này làm nẩy sinh ra nhiều mưu mô để hạ uy tín đối phương và đề cao giáo-lý bộ phái của mình.
Nhiều phái sáng tác ra những bộ kinh mới để bày tỏ lập trường của mình, nhưng muốn cho bộ kinh có nhiều uy tín, nên nói rằng kinh này chính do Đức Phật thuyết và cũng ghi bốn chữ Như Thị Ngã Văn ở đầu quyển kinh sách mà nội dung có thể ngược lại với giáo lý của Đức Phật. Càng xa Phật kinh, điển càng nhiều, sai khác càng lắm, khiến những người mới bước chân vào ngưỡng cửa Phật học không biết làm sao phân biệt thật giả.
Đức Phật biết trước sự việc sẽ xảy ra như thế nên đã dạy các đệ tử một phương pháp đặc biệt để khảo sát kinh điển gọi là Tam Pháp Ấn, nghĩa là ba phép tắc để xác nhận sự chân chánh của một bộ kinh. Tam Pháp Ấn gồm có 3 điều:
Chư hành vô thường (Sabbe sankhara anicca)
Chư Pháp thị khổ (Sabbe dhamma dukkha)
Chư Pháp vô ngã (Sabbe dhamma anatta)
Những bộ kinh nào chứa đựng 3 điều trên đây là kinh do Phật nói hoặc hợp với giáo-lý của Phật; nếu thiếu một trong ba điều thì không phải kinh điển của Đức Phật. Phương pháp khảo sát này ví như một cây thước hình lăng trụ có 3 mặt, một mặt tượng trưng cho luật vô thường, một mặt là lý vô ngã, còn một mặt nói về sự khổ của thế gian. Khi gặp một bộ kinh nào cần khảo sát, các đệ tử đem cây thước Tam Pháp Ấn ra dùng, đo mặt này đúng rồi lật qua mặt khác, nếu cả 3 mặt đều đúng thì đó là kinh của Phật. Tam Pháp Ấn được ví như 3 con dấu đóng trên một văn kiện để chứng nhận sự đúng đắn của văn kiện đó, phải đủ 3 dấu, thiếu một không được. Những người nào hiểu được và nắm vững được Tam Pháp Ấn, sống theo Tam Pháp Ấn thì người đó đã nắm được bí quyết để tìm ra giải đáp của bài toán về nhân sinh và vũ trụ, người đó đã có chìa khóa để mở cửa đi vào chốn giác ngộ và giải thoát.
Chư hành vô thường (Sabbe sankhara anicca)
Chữ hành (sankhara) ở đây không có nghĩa là làm, mà có nghĩa là những gì tụ tập mà thành, hòa hợp mà có, biến dịch luôn luôn. Tất cả những “hành” đều vô thường, nghĩa là không thừong trú, chỉ là giả có trong một khoảng thời gian và không gian, không có thực thể và luôn luôn biến đổi, đủ duyên thì hiện, hết duyên thì ẩn, trước có sau không, chẳng bền vững, chẳng có thật. Những “hành” đó là sản phẩm của những sự vật đã có từ trước và chúng sẽ tạo ra những sự vật sẽ có sau này. Tóm lại, tất cả đều do liên tập (interdépendance) mà ra, không đứng tự lập riêng biệt một mình được. Có hợp thì có tan, có thành thì có hoại, vì vậy nên gọi là vô thường.
Chư Pháp thị khổ (Sabbe dhamma dukkha)
Chữ pháp (dhamma) có nghĩa rộng hơn chữ hành nhiều, và trong Phật-giáo, không có danh từ nào lại có nghĩa rộng hơn chữ pháp. Nó bao gồm tất cả sự vật hữu hình, vô hình, những vật có thật hay không có thật (lông rùa, sừng thỏ) những trạng thái tâm linh tương đối hay tuyệt đối…. Nói cho gọn, tất cả mọi sự mọi vật đều gọi chung là pháp.
Chữ Dukkha có nhiều nghĩa, người ta có thể đứng về 3 phương diện: triết-học, tâm lý, vật lý, và dùng nhiều danh từ để dịch chữ dukkha; thông thường nhất, người ta dịch dukkha là khổ đau, sầu não, buồn bực; nhưng trong phạm vi Tam Pháp Ấn, ý nghĩa đúng hơn hết của danh từ dukkha là sự bất mãn, không hài lòng (Unhappiness, unstisfactoriness), bao hàm nhữngý nghĩa sâu xa hơn, như vô thường, giả huyển.
Tất cả các pháp đã vô thường thì đó là nguồn gốc của bất mãn và khổ đau. Người ta thường nói: đời là bể khổ. Phật-giáo cũng dạy ba điều khổ (khổ khổ, hành khổ, hoại khổ), hoặc tám điều khổ (sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ầcu mong mà không được là khổ, yêu thương mà chia lìa là khổ, oán ghét mà chung đụng là khổ, ngũ ấm không điều hòa bốc lên rừng rực là khổ), nhưng ở đây chúngtôi muốn đứng về khía cạnh tríêt học mà phân tích chữ Dukkha. Đức Phật dạy: “Năm uẩn trói buộc là Dukkha, Dukkha chính là năm uẩn họp lại thành cái ta và các pháp. Khi hết duyên, hết các điều kiện cần và đủ (conditions necessaires et suffisantes) thì năm uẩn rời rã, các pháp tan biến, cái ta không còn. Chúng ta thương yêu thân ta, chúng ta yêu của cải, danh vọng, gia đình thân thuộc của ta (Ngã và ngã sở) chúng ta mong tất cả đều tốt đẹp, đều bền vững, đều làm vừa ý ta, nhưng mỗi khi vật đổi sao dời, những việc trái ý nghịch lòng xảy đến thì chúng ta đau khổ, bất mãn; chỉ vì chúng ta bám víu vào các pháp nên chúng ta bị cái khổ lôi cuốn, nhận chìm trong bể ái dục. Đức Phật hỏi một đệ tử: “Sắc là thường hay vô thường?”. Đệ tử thưa: “Bạch Thế Tôn, vô thường”. Phật hỏi tiếp: “Cái gì vô thường làm người ta thỏa mãn hay bất mãn?”. Tất cả các pháp đều vô thường, đều gây bất mãn, đều là khổ, đó chính là ý nghĩa của Pháp Ấn thứ hai: chư pháp thị khổ.
Chư Pháp vô ngã (Sabbe dhamma anatta)
Lý vô ngã đã làm rất nhiều người hiểu lầm Phật-giáo, cho rằng Phật-giáo là ngụy biện hư vô, ai cũng có thân thể mà sao lại nói là vô ngã? Giáo-lý Đức Phật dạy rằng: cái thân của ta là do tứ đại hợp thành, có sinh có diệt, thân ta sống trên đời nhiều lắm là 100 năm, nó là cái giả tạm phù du, không phải cái ngã trường tồn bất biến. Hơn nữa, ta không làm chủ được thân ta, ta không thể giữ nó trẻ đẹp mãi, không bệnh, không suy, thân ta phải chịu sự chi phối của luật vô thường, chịu nhiều điều đau khổ thì nó không phải là của ta, nó không là tự ngã của ta, cái ta thật nhứt định không phải là cái thân ấy.
Nếu nói linh hồn là tự ngã thì lại càng sai; nhiều người thường lầm tưởng là con người có một linh hồn bất diệt, chuyển từ thân này sang thân khác sau khi chết, ví như con sâu rời bỏ chiếc lá này để bò sang lá khác Phật-giáo chủ trương không có linh hồn bất diệt và con người do ngũ uẩn tạo thành, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, không lưu lại cái gì trường tồn bất biến cả. Linh hồn hay là “thức” chỉ là sự hiểu biết phát sinh do sự phối hợp của căn và trần. Căn và trần đều vô thường vô ngã thì thức cũng vô ngã vô thường theo, không thể nào tồn tại vĩnh viễn được; sau khi chết, lục căn tan rã, lục thức cũng tiêu diệt theo.
Đến đây lại có người cho rằng lý vô ngã đưa đến hư vô chủ nghĩa; con người sau khi chết không còn gì cả, không luân hồi, không nhân quả. Sự thật trái hẳn; lý vô ngã chống đối tà thuyết thường kiến (có linh hồn bất diệt) và chống luôn cả tà thuyết đoạn kiến (sau khi chết không còn gì cả). Lý vô ngã là trung đạo đưa ra một sự thật được phát hiện nhờ sự phân tích vạn vật một cách thấu đáo.
Ngoài con người, các vật khác cũng vậy, từ động vật qua thực vật đến khoáng chất, từ thế giới vật lý đến tâm lý, tất cả đều biến chuyển, đều vô ngã. Tất cả các pháp đều vô ngã, nghĩa là không có chủ thể, không đứng riêng biệt một mình, không cái gì trường tồn bất biến gọi là ta (hoặc linh hồn) bỏ thân này đầu thai sang thân khác, ví như người bỏ áo cũ để mặc áo mới. Vạn vật mà có là do nhiều duyên hợp lại, tương tùy tương sinh; khi hết duyên thì ta rã, không có tự thể, mà cũng không do một Đấng nào muốn tạo là có, muốn hủy là diệt. Câu truyện giữa Na-Tiên tỳ-kheo và vua Milinda đã làm sáng tỏ vấn đề vô ngã. Cái ta là gì? Chỉ không được. Cái ta không phải đầu, không phải bộ óc, không phải trái tim, không phải tư tưởng, không phải tâm thức, mà cũng không phải cái tên do cha mẹ đặt cho; tất cả những bộ phận vật chất và phần tinh thần hợp lại tạo thành một cái tạm gọi là ta (Ngã). Cái ta này không thật, nó giả hợp, không trường tồn bất biến, vì khi thiếu những điều kiện để tạo thành thì cái ta tan rã, không còn gì cả. Danh từ Phật-học gọi đó là Giả Danh Ngã.
Một thí dụ khác: cái xe được tạo ra bằng những bộ phận rời: thùng, bánh, tay cầm, sắt, đồng, gỗ… Khi chúng kết hợp thì ta có một vật để vận chuyển đặt tên là cái xe, khi những bộ phận rời rã thì không còn gì là cái xe cả. Cái nhả cũng vậy, gồm có gạch, ngói, cát, vôi, hồ, sắt, gỗ… chồng chất lên nhau, nương tựa vào nhau, tạo thành một vật để che mưa nắng gió bão, chúng ta đặt tên là cái nhà; rồi khi bị bom đạn tàn phá, lửa cháy nước trôi, những bộ phận bị tan rã, đổ nát, không còn gì là cái nhà nữa.
Nhiều phái sáng tác ra những bộ kinh mới để bày tỏ lập trường của mình, nhưng muốn cho bộ kinh có nhiều uy tín, nên nói rằng kinh này chính do Đức Phật thuyết và cũng ghi bốn chữ Như Thị Ngã Văn ở đầu quyển kinh sách mà nội dung có thể ngược lại với giáo lý của Đức Phật. Càng xa Phật kinh, điển càng nhiều, sai khác càng lắm, khiến những người mới bước chân vào ngưỡng cửa Phật học không biết làm sao phân biệt thật giả.
Đức Phật biết trước sự việc sẽ xảy ra như thế nên đã dạy các đệ tử một phương pháp đặc biệt để khảo sát kinh điển gọi là Tam Pháp Ấn, nghĩa là ba phép tắc để xác nhận sự chân chánh của một bộ kinh. Tam Pháp Ấn gồm có 3 điều:
Chư hành vô thường (Sabbe sankhara anicca)
Chư Pháp thị khổ (Sabbe dhamma dukkha)
Chư Pháp vô ngã (Sabbe dhamma anatta)
Những bộ kinh nào chứa đựng 3 điều trên đây là kinh do Phật nói hoặc hợp với giáo-lý của Phật; nếu thiếu một trong ba điều thì không phải kinh điển của Đức Phật. Phương pháp khảo sát này ví như một cây thước hình lăng trụ có 3 mặt, một mặt tượng trưng cho luật vô thường, một mặt là lý vô ngã, còn một mặt nói về sự khổ của thế gian. Khi gặp một bộ kinh nào cần khảo sát, các đệ tử đem cây thước Tam Pháp Ấn ra dùng, đo mặt này đúng rồi lật qua mặt khác, nếu cả 3 mặt đều đúng thì đó là kinh của Phật. Tam Pháp Ấn được ví như 3 con dấu đóng trên một văn kiện để chứng nhận sự đúng đắn của văn kiện đó, phải đủ 3 dấu, thiếu một không được. Những người nào hiểu được và nắm vững được Tam Pháp Ấn, sống theo Tam Pháp Ấn thì người đó đã nắm được bí quyết để tìm ra giải đáp của bài toán về nhân sinh và vũ trụ, người đó đã có chìa khóa để mở cửa đi vào chốn giác ngộ và giải thoát.
Chư hành vô thường (Sabbe sankhara anicca)
Chữ hành (sankhara) ở đây không có nghĩa là làm, mà có nghĩa là những gì tụ tập mà thành, hòa hợp mà có, biến dịch luôn luôn. Tất cả những “hành” đều vô thường, nghĩa là không thừong trú, chỉ là giả có trong một khoảng thời gian và không gian, không có thực thể và luôn luôn biến đổi, đủ duyên thì hiện, hết duyên thì ẩn, trước có sau không, chẳng bền vững, chẳng có thật. Những “hành” đó là sản phẩm của những sự vật đã có từ trước và chúng sẽ tạo ra những sự vật sẽ có sau này. Tóm lại, tất cả đều do liên tập (interdépendance) mà ra, không đứng tự lập riêng biệt một mình được. Có hợp thì có tan, có thành thì có hoại, vì vậy nên gọi là vô thường.
Chư Pháp thị khổ (Sabbe dhamma dukkha)
Chữ pháp (dhamma) có nghĩa rộng hơn chữ hành nhiều, và trong Phật-giáo, không có danh từ nào lại có nghĩa rộng hơn chữ pháp. Nó bao gồm tất cả sự vật hữu hình, vô hình, những vật có thật hay không có thật (lông rùa, sừng thỏ) những trạng thái tâm linh tương đối hay tuyệt đối…. Nói cho gọn, tất cả mọi sự mọi vật đều gọi chung là pháp.
Chữ Dukkha có nhiều nghĩa, người ta có thể đứng về 3 phương diện: triết-học, tâm lý, vật lý, và dùng nhiều danh từ để dịch chữ dukkha; thông thường nhất, người ta dịch dukkha là khổ đau, sầu não, buồn bực; nhưng trong phạm vi Tam Pháp Ấn, ý nghĩa đúng hơn hết của danh từ dukkha là sự bất mãn, không hài lòng (Unhappiness, unstisfactoriness), bao hàm nhữngý nghĩa sâu xa hơn, như vô thường, giả huyển.
Tất cả các pháp đã vô thường thì đó là nguồn gốc của bất mãn và khổ đau. Người ta thường nói: đời là bể khổ. Phật-giáo cũng dạy ba điều khổ (khổ khổ, hành khổ, hoại khổ), hoặc tám điều khổ (sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ầcu mong mà không được là khổ, yêu thương mà chia lìa là khổ, oán ghét mà chung đụng là khổ, ngũ ấm không điều hòa bốc lên rừng rực là khổ), nhưng ở đây chúngtôi muốn đứng về khía cạnh tríêt học mà phân tích chữ Dukkha. Đức Phật dạy: “Năm uẩn trói buộc là Dukkha, Dukkha chính là năm uẩn họp lại thành cái ta và các pháp. Khi hết duyên, hết các điều kiện cần và đủ (conditions necessaires et suffisantes) thì năm uẩn rời rã, các pháp tan biến, cái ta không còn. Chúng ta thương yêu thân ta, chúng ta yêu của cải, danh vọng, gia đình thân thuộc của ta (Ngã và ngã sở) chúng ta mong tất cả đều tốt đẹp, đều bền vững, đều làm vừa ý ta, nhưng mỗi khi vật đổi sao dời, những việc trái ý nghịch lòng xảy đến thì chúng ta đau khổ, bất mãn; chỉ vì chúng ta bám víu vào các pháp nên chúng ta bị cái khổ lôi cuốn, nhận chìm trong bể ái dục. Đức Phật hỏi một đệ tử: “Sắc là thường hay vô thường?”. Đệ tử thưa: “Bạch Thế Tôn, vô thường”. Phật hỏi tiếp: “Cái gì vô thường làm người ta thỏa mãn hay bất mãn?”. Tất cả các pháp đều vô thường, đều gây bất mãn, đều là khổ, đó chính là ý nghĩa của Pháp Ấn thứ hai: chư pháp thị khổ.
Chư Pháp vô ngã (Sabbe dhamma anatta)
Lý vô ngã đã làm rất nhiều người hiểu lầm Phật-giáo, cho rằng Phật-giáo là ngụy biện hư vô, ai cũng có thân thể mà sao lại nói là vô ngã? Giáo-lý Đức Phật dạy rằng: cái thân của ta là do tứ đại hợp thành, có sinh có diệt, thân ta sống trên đời nhiều lắm là 100 năm, nó là cái giả tạm phù du, không phải cái ngã trường tồn bất biến. Hơn nữa, ta không làm chủ được thân ta, ta không thể giữ nó trẻ đẹp mãi, không bệnh, không suy, thân ta phải chịu sự chi phối của luật vô thường, chịu nhiều điều đau khổ thì nó không phải là của ta, nó không là tự ngã của ta, cái ta thật nhứt định không phải là cái thân ấy.
Nếu nói linh hồn là tự ngã thì lại càng sai; nhiều người thường lầm tưởng là con người có một linh hồn bất diệt, chuyển từ thân này sang thân khác sau khi chết, ví như con sâu rời bỏ chiếc lá này để bò sang lá khác Phật-giáo chủ trương không có linh hồn bất diệt và con người do ngũ uẩn tạo thành, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, không lưu lại cái gì trường tồn bất biến cả. Linh hồn hay là “thức” chỉ là sự hiểu biết phát sinh do sự phối hợp của căn và trần. Căn và trần đều vô thường vô ngã thì thức cũng vô ngã vô thường theo, không thể nào tồn tại vĩnh viễn được; sau khi chết, lục căn tan rã, lục thức cũng tiêu diệt theo.
Đến đây lại có người cho rằng lý vô ngã đưa đến hư vô chủ nghĩa; con người sau khi chết không còn gì cả, không luân hồi, không nhân quả. Sự thật trái hẳn; lý vô ngã chống đối tà thuyết thường kiến (có linh hồn bất diệt) và chống luôn cả tà thuyết đoạn kiến (sau khi chết không còn gì cả). Lý vô ngã là trung đạo đưa ra một sự thật được phát hiện nhờ sự phân tích vạn vật một cách thấu đáo.
Ngoài con người, các vật khác cũng vậy, từ động vật qua thực vật đến khoáng chất, từ thế giới vật lý đến tâm lý, tất cả đều biến chuyển, đều vô ngã. Tất cả các pháp đều vô ngã, nghĩa là không có chủ thể, không đứng riêng biệt một mình, không cái gì trường tồn bất biến gọi là ta (hoặc linh hồn) bỏ thân này đầu thai sang thân khác, ví như người bỏ áo cũ để mặc áo mới. Vạn vật mà có là do nhiều duyên hợp lại, tương tùy tương sinh; khi hết duyên thì ta rã, không có tự thể, mà cũng không do một Đấng nào muốn tạo là có, muốn hủy là diệt. Câu truyện giữa Na-Tiên tỳ-kheo và vua Milinda đã làm sáng tỏ vấn đề vô ngã. Cái ta là gì? Chỉ không được. Cái ta không phải đầu, không phải bộ óc, không phải trái tim, không phải tư tưởng, không phải tâm thức, mà cũng không phải cái tên do cha mẹ đặt cho; tất cả những bộ phận vật chất và phần tinh thần hợp lại tạo thành một cái tạm gọi là ta (Ngã). Cái ta này không thật, nó giả hợp, không trường tồn bất biến, vì khi thiếu những điều kiện để tạo thành thì cái ta tan rã, không còn gì cả. Danh từ Phật-học gọi đó là Giả Danh Ngã.
Một thí dụ khác: cái xe được tạo ra bằng những bộ phận rời: thùng, bánh, tay cầm, sắt, đồng, gỗ… Khi chúng kết hợp thì ta có một vật để vận chuyển đặt tên là cái xe, khi những bộ phận rời rã thì không còn gì là cái xe cả. Cái nhả cũng vậy, gồm có gạch, ngói, cát, vôi, hồ, sắt, gỗ… chồng chất lên nhau, nương tựa vào nhau, tạo thành một vật để che mưa nắng gió bão, chúng ta đặt tên là cái nhà; rồi khi bị bom đạn tàn phá, lửa cháy nước trôi, những bộ phận bị tan rã, đổ nát, không còn gì là cái nhà nữa.