Totha_Lien
08-18-2011, 12:05 PM
Tam quy y trong Phật pháp Phật pháp là đề tài rất quan trọng, là chỗ nhập môn tu học của chúng ta. Trước khi nói đến tam quy, đầu tiên phải có nhận thức chính xác về Phật pháp.
Phật pháp trên thế giới hiện nay có rất nhiều hình thức bất đồng, chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng. Ðiều phổ biến nhất là người ta cho rằng Phật pháp là “Tôn giáo”, và chúng ta cũng không thể không thừa nhận là tôn giáo được, đây chính là Phật pháp biến chất. Thật ra Phật pháp vốn không phải là tôn giáo, nhưng hiện nay xác thực đã biến thành tôn giáo. Có nơi biến thành học thuật, đặc biệt có một số trường học, đoàn thể học thuật tại Nhật Bản biến Phật pháp thành triết học, đó cũng là Phật pháp biến chất.
Năm 1923 Ðại sư Âu Dương Cánh Vô tại Ðại học Trung Sơn đệ tứ Nam Kinh (tức là Ðại học sư phạm Nam Kinh hiện nay), đã diễn giảng một bài rất cảm động là: “Phật pháp chẳng phải tôn giáo, chẳng phải triết học, mà là nhu cầu cấp thiết của đời sống hiện nay”, nói rõ Phật pháp không phải là tôn giáo, cũng không phải là triết học, mà nó chính là thứ mà người ta hiện nay đều cần phải học tập. Phật pháp biến chất thành tôn giáo và triết học, thật tại là rất bất hạnh, thế nhưng đối với xã hội thì không đến nỗi ảnh hưởng gì.
Những năm gần đây, chúng ta thấy có nơi Phật pháp biến thành “tà giáo”. Quý vị có quan sát rõ ràng mới thấy đối với cá nhân, xã hội là rất có hại. Có nơi Phật pháp bị biến chất pha tạp quá nhiều. Ðại sư Âu Dương nói với chúng ta Phật pháp là thứ mà người hiện tại cần phải học tập; nhưng lại chưa nói rõ Phật pháp cứu cánh là gì, ông muốn để tự chúng ta lãnh ngộ, thể hội.
Chúng ta bình tĩnh quan sát sẽ thấy “Phật pháp” chính là “giáo dục”, là “giáo học”, từ cách xưng hô thường thấy trong kinh luận có thể chứng minh được điều này. Chúng ta gọi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là “Bổn Sư”, tự xưng mình là “đệ tử”. Chỉ có trong giáo dục giáo học mới có loại xưng hô này, đây là mối quan hệ thầy trò. Phật là thầy gốc của chúng ta.
Phật pháp hướng dẫn chúng sinh “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Phật nói vô lượng khổ não của tất cả chúng sinh, bắt nguồn từ chỗ không hiểu rõ chân tướng của chính mình và hoàn cảnh sinh hoạt, cho nên đã sinh ra cái thấy, cái nhìn sai lầm, do đó mới có bao nhiêu là khổ nạn. Nếu có thể triệt để hiểu rõ chính mình và hoàn cảnh sinh hoạt, thì tư tưởng và kiến giải sẽ chính xác, tất cả khổ tự nhiên tiêu trừ, đạt đến chỗ an lạc chân chính. Ðây là nội dung của giáo học, tôn chỉ của giáo dục Phật pháp. Do đó đủ biết giáo dục của Ðức Phật thật tại có thể đem lại lợi ích chân thật cho tất cả chúng sinh. Ðây chính là chỗ mà đại sư Âu Dương đã nói “Phật pháp là nhu cầu tu học cần thiết của tất cả chúng sinh”.
Bước đầu tu học Phật pháp chính là truyền thọ tam quy. Tam quy là tổng cương lĩnh, tổng phương hướng tu hành Phật pháp. Học Phật là bắt đầu từ tam quy, nó là tổng nguyên tắc tu học của người học Phật phải tuân thủ thực hành suốt đời. Thứ nhất là quy y Phật, thứ hai là quy y Pháp, thứ ba là quy y Tăng. Thời xưa giảng pháp cách này, mọi người sẽ không phát sinh hiểu lầm. Thế nhưng Phật pháp từ xưa lưu truyền đến nay, căn cứ theo sự ghi chép của lịch sử Trung Quốc đã có gần ba ngàn năm, đời đời tương truyền, không tránh khỏi lẫn lộn một số tri kiến không chính xác ở trong đó, hiểu sai nghĩa chân thật của tam quy, như người Trung Quốc thường nói “Dùng sai truyền sai”.
“Lục Tổ Ðàn Kinh” là trước tác đời Ðường, cách nay khoảng 1300 năm. Trong “Ðàn Kinh” Lục Tổ nói “Tam quy y” thì nói là “quy y giác”, “quy y chính”, “quy y tịnh”, mà không dùng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ðiều này khiến chúng ta liên tưởng đến, ngay từ trước thời triều Ðường đại khái có rất nhiều người hiểu lầm ý nghĩa quy y Tam Bảo. Nếu không có người hiểu lầm, Lục Tổ đâu phải dùng cách giảng này ! Tất nhiên là có rất nhiều người hiểu lầm. Trước 1300 năm nói quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng có người hiểu lầm, hà huống trải qua 1300 năm sau, ngày nay nói đến quy y Tam Bảo khó tránh khỏi mọi người hiểu sai ý nghĩa.
Ðàn Kinh cho chúng ta một lời khai thị rất lớn. Lục Tổ giải thích Phật Pháp Tăng Tam Bảo: Phật là Giác, là ý giác ngộ. Pháp là Chính, là chính tri chính kiến. Tăng là Tịnh, là sáu căn thanh tịnh, một hạt bụi không nhiễm. Còn chữ quy y, quy là hồi đầu (thức tĩnh), y là nương theo (hoà hợp).
Thế nào là quy y Phật? Thông thường người ta đối với bản thân, đối với hoàn cảnh sinh hoạt trước mắt xác thực là mê mà không giác. Phật dạy chúng ta từ mê hoặc điên đảo hồi đầu nương theo chính giác, đó mới là quy y Phật chân chính. Do đây đủ biết, Phật pháp giảng về Tam Bảo có rất nhiều cách nói, quy y giác là tự tính Tam bảo. Nếu hướng ngoài tự tính tìm học, chính là chỗ mà nhà Phật gọi là ngoại đạo. Nhà Phật giảng ngoại đạo không phải xem khinh người khác mà là cầu pháp ngoài tâm gọi là ngoại đạo. Phật pháp dạy chúng ta từ trong tâm tính mà cầu, cho nên Phật pháp là cái học bên trong, từ trong tâm mình mà cầu, không phải hướng ngoại mà cầu. Hướng ngoại mà cầu là sai, là không thể được, hướng nội cầu thì có cầu tất ứng. Ðạo lý này, không những trong kinh luận của Phật nói rất rõ, Nho gia, Ðạo gia của Trung Quốc cũng nói rất chính xác.
Quy y Tam Bảo, chỗ quy y chân chính là nương tựa tự tính Tam Bảo. Từ mê hoặc hồi đầu (Trí) nương theo tự tính giác, câu này nói thì rất dễ nhưng rốt ráo phải làm cách nào? Chúng ta rất muốn hồi đầu, rất muốn giác mà không mê, nhưng nó cứ mê hoặc điên đảo mãi. Nếu như không dừng lại trong sinh hoạt thực tại, cách nói này biến thành huyền đàm, huyền học, trên sinh hoạt thực tế không có được chút thọ dụng nào. Hiện tượng mê và giác là gì, mê cái gì, giác cái gì, Phật, Bồ Tát và phàm phu khác nhau như thế nào? Chúng ta từ trong đó có thể tìm ra một con đường, tìm được chỗ quy y chân chính.
Năm mươi ba tham vấn trong Kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Phật Bồ Tát. Những biểu hiện của họ chính là tất cả hoạt động trong cuộc sống hằng ngày trước mắt, dù biểu hiện qua các hình tướng nam nữ, già trẻ, các ngành nghề nào trong sinh hoạt thường ngày, tợ hồ như với phàm phu không có gì sai biệt, cũng làm việc, cũng giao tế qua lại, các việc này cũng tương đồng như chúng ta. Như vậy chỗ bất đồng trong tương đồng tại đâu? Ở chỗ tâm thanh tịnh của họ. Sự việc của họ với chúng ta giống nhau không có chút nào sai biệt. Chúng ta mỗi ngày làm việc 8 giờ, họ cũng làm việc 8 giờ. Chúng ta trong sinh hoạt hằng ngày phát sinh phiền não, còn họ thì ngày ngày sinh trí tuệ. Ðó chính là chỗ không giống. Chúng ta sinh hoạt, làm việc, giao tiếp đều sinh phiền não. Họ sinh hoạt, làm việc, giao tiếp đều sinh trí tuệ. Vì sao biết được? Lục Tổ Huệ Năng là một chứng minh, lúc ngài đến Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ, bạch với Ngũ Tổ rằng: “Trong tâm của đệ tử thường sinh trí tuệ”. Chúng ta đọc qua câu này có sự cảm xúc rất sâu sắc, tâm của ngài thường sinh trí tuệ, tâm của ta thường sinh phiền não. Ðây là chỗ bất đồng giữa Phật Bồ Tát và người phàm.
Trí tuệ vì sao sinh, phiền não từ đâu đến, chỉ cần làm cho rõ ràng thì sẽ biết từ đâu để hồi đầu, để nương tựa. Phiền não từ vọng tưởng phân biệt chấp trước mà sinh, đây là điều Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm. Chúng ta mặc áo ăn cơm có vọng tưởng phân biệt chấp trước, đối người tiếp vật vẫn có vọng tưởng phân biệt chấp trước, từ chỗ này sinh phiền não, sinh thất tình ngũ dục, sinh tham sân si mạn, phiền não vĩnh viễn không đoạn. Do đây đủ biết, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là tâm luân hồi, lục đạo luân hồi là do những hiện tượng tâm niệm này tạo thành. Chúng ta hằng ngày sinh hoạt, làm việc, giao tiếp chính là tạo nghiệp luân hồi. Tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tức là mê hoặc điên đảo.
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu (Trí), quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh siêu việt thế gian và xuất thế gian pháp, xa lìa vọng tưởng phân biệt chấp trước tức là chân tâm, Phật tính. Xa lìa vọng tưởng phân biệt chấp trước thì sinh hoạt của chúng ta tức là Bồ Tát hạnh. Mỗi ngày đi làm việc cũng là Bồ Tát hạnh. Từ sáng đến chiều giao tiếp vẫn là Bồ Tát hạnh. Mấu chốt ở tại chỗ này, chính là đem vọng niệm xoay chuyển lại, từ trên quan niệm mà hồi đầu. Xa lìa vọng tưởng phân biệt chấp trước, chỗ dụng chính là chân tâm, “chân tâm ly niệm” là điều mà kinh Ðại thừa thường nói. Niệm là vọng tưởng, vọng tưởng là vọng niệm, trong chân tâm không có vọng niệm, chân tâm là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Dùng tâm thanh tịnh sinh hoạt thì sinh hoạt thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh làm việc thì làm việc thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh giao tiếp thì giao tiếp thanh tịnh, không một thứ nào là không thanh tịnh. Tâm tịnh thân sẽ thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh. Có một số vị đồng tu hỏi: “Tôi làm công việc cần phải suy nghĩ, nếu không suy nghĩ thì công việc của tôi làm sao thành tựu được?”. Lúc bạn làm việc cần phải suy nghĩ, cứ suy nghĩ, khi làm việc xong rồi thì không cần suy nghĩ lại nữa. Làm việc xong rồi lại còn nghĩ về nó tức là vọng tưởng. Niệm có vọng niệm, có chính niệm. Chính niệm là trong phạm vi việc làm của mình, ngoài ra không nghĩ tưởng thứ khác, những thứ khác với ta không tương can gì cả. Cũng vậy, công việc của bạn có thể làm được tốt, phiền não vọng tưởng ít đi, trí tuệ sẽ tăng trưởng, công việc sẽ rất thuận lợi. Tất cả thời, tất cả chỗ biết trưởng dưỡng tâm từ bi, thì dù cho việc gì cũng đều sẽ làm tốt, cuộc sống lại càng vui vẻ thêm hơn. Chúng ta cũng cần nên học đại sư Huệ Năng “Trong tâm đệ tử thường sinh trí tuệ”.
Phật pháp trên thế giới hiện nay có rất nhiều hình thức bất đồng, chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng. Ðiều phổ biến nhất là người ta cho rằng Phật pháp là “Tôn giáo”, và chúng ta cũng không thể không thừa nhận là tôn giáo được, đây chính là Phật pháp biến chất. Thật ra Phật pháp vốn không phải là tôn giáo, nhưng hiện nay xác thực đã biến thành tôn giáo. Có nơi biến thành học thuật, đặc biệt có một số trường học, đoàn thể học thuật tại Nhật Bản biến Phật pháp thành triết học, đó cũng là Phật pháp biến chất.
Năm 1923 Ðại sư Âu Dương Cánh Vô tại Ðại học Trung Sơn đệ tứ Nam Kinh (tức là Ðại học sư phạm Nam Kinh hiện nay), đã diễn giảng một bài rất cảm động là: “Phật pháp chẳng phải tôn giáo, chẳng phải triết học, mà là nhu cầu cấp thiết của đời sống hiện nay”, nói rõ Phật pháp không phải là tôn giáo, cũng không phải là triết học, mà nó chính là thứ mà người ta hiện nay đều cần phải học tập. Phật pháp biến chất thành tôn giáo và triết học, thật tại là rất bất hạnh, thế nhưng đối với xã hội thì không đến nỗi ảnh hưởng gì.
Những năm gần đây, chúng ta thấy có nơi Phật pháp biến thành “tà giáo”. Quý vị có quan sát rõ ràng mới thấy đối với cá nhân, xã hội là rất có hại. Có nơi Phật pháp bị biến chất pha tạp quá nhiều. Ðại sư Âu Dương nói với chúng ta Phật pháp là thứ mà người hiện tại cần phải học tập; nhưng lại chưa nói rõ Phật pháp cứu cánh là gì, ông muốn để tự chúng ta lãnh ngộ, thể hội.
Chúng ta bình tĩnh quan sát sẽ thấy “Phật pháp” chính là “giáo dục”, là “giáo học”, từ cách xưng hô thường thấy trong kinh luận có thể chứng minh được điều này. Chúng ta gọi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là “Bổn Sư”, tự xưng mình là “đệ tử”. Chỉ có trong giáo dục giáo học mới có loại xưng hô này, đây là mối quan hệ thầy trò. Phật là thầy gốc của chúng ta.
Phật pháp hướng dẫn chúng sinh “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Phật nói vô lượng khổ não của tất cả chúng sinh, bắt nguồn từ chỗ không hiểu rõ chân tướng của chính mình và hoàn cảnh sinh hoạt, cho nên đã sinh ra cái thấy, cái nhìn sai lầm, do đó mới có bao nhiêu là khổ nạn. Nếu có thể triệt để hiểu rõ chính mình và hoàn cảnh sinh hoạt, thì tư tưởng và kiến giải sẽ chính xác, tất cả khổ tự nhiên tiêu trừ, đạt đến chỗ an lạc chân chính. Ðây là nội dung của giáo học, tôn chỉ của giáo dục Phật pháp. Do đó đủ biết giáo dục của Ðức Phật thật tại có thể đem lại lợi ích chân thật cho tất cả chúng sinh. Ðây chính là chỗ mà đại sư Âu Dương đã nói “Phật pháp là nhu cầu tu học cần thiết của tất cả chúng sinh”.
Bước đầu tu học Phật pháp chính là truyền thọ tam quy. Tam quy là tổng cương lĩnh, tổng phương hướng tu hành Phật pháp. Học Phật là bắt đầu từ tam quy, nó là tổng nguyên tắc tu học của người học Phật phải tuân thủ thực hành suốt đời. Thứ nhất là quy y Phật, thứ hai là quy y Pháp, thứ ba là quy y Tăng. Thời xưa giảng pháp cách này, mọi người sẽ không phát sinh hiểu lầm. Thế nhưng Phật pháp từ xưa lưu truyền đến nay, căn cứ theo sự ghi chép của lịch sử Trung Quốc đã có gần ba ngàn năm, đời đời tương truyền, không tránh khỏi lẫn lộn một số tri kiến không chính xác ở trong đó, hiểu sai nghĩa chân thật của tam quy, như người Trung Quốc thường nói “Dùng sai truyền sai”.
“Lục Tổ Ðàn Kinh” là trước tác đời Ðường, cách nay khoảng 1300 năm. Trong “Ðàn Kinh” Lục Tổ nói “Tam quy y” thì nói là “quy y giác”, “quy y chính”, “quy y tịnh”, mà không dùng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ðiều này khiến chúng ta liên tưởng đến, ngay từ trước thời triều Ðường đại khái có rất nhiều người hiểu lầm ý nghĩa quy y Tam Bảo. Nếu không có người hiểu lầm, Lục Tổ đâu phải dùng cách giảng này ! Tất nhiên là có rất nhiều người hiểu lầm. Trước 1300 năm nói quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng có người hiểu lầm, hà huống trải qua 1300 năm sau, ngày nay nói đến quy y Tam Bảo khó tránh khỏi mọi người hiểu sai ý nghĩa.
Ðàn Kinh cho chúng ta một lời khai thị rất lớn. Lục Tổ giải thích Phật Pháp Tăng Tam Bảo: Phật là Giác, là ý giác ngộ. Pháp là Chính, là chính tri chính kiến. Tăng là Tịnh, là sáu căn thanh tịnh, một hạt bụi không nhiễm. Còn chữ quy y, quy là hồi đầu (thức tĩnh), y là nương theo (hoà hợp).
Thế nào là quy y Phật? Thông thường người ta đối với bản thân, đối với hoàn cảnh sinh hoạt trước mắt xác thực là mê mà không giác. Phật dạy chúng ta từ mê hoặc điên đảo hồi đầu nương theo chính giác, đó mới là quy y Phật chân chính. Do đây đủ biết, Phật pháp giảng về Tam Bảo có rất nhiều cách nói, quy y giác là tự tính Tam bảo. Nếu hướng ngoài tự tính tìm học, chính là chỗ mà nhà Phật gọi là ngoại đạo. Nhà Phật giảng ngoại đạo không phải xem khinh người khác mà là cầu pháp ngoài tâm gọi là ngoại đạo. Phật pháp dạy chúng ta từ trong tâm tính mà cầu, cho nên Phật pháp là cái học bên trong, từ trong tâm mình mà cầu, không phải hướng ngoại mà cầu. Hướng ngoại mà cầu là sai, là không thể được, hướng nội cầu thì có cầu tất ứng. Ðạo lý này, không những trong kinh luận của Phật nói rất rõ, Nho gia, Ðạo gia của Trung Quốc cũng nói rất chính xác.
Quy y Tam Bảo, chỗ quy y chân chính là nương tựa tự tính Tam Bảo. Từ mê hoặc hồi đầu (Trí) nương theo tự tính giác, câu này nói thì rất dễ nhưng rốt ráo phải làm cách nào? Chúng ta rất muốn hồi đầu, rất muốn giác mà không mê, nhưng nó cứ mê hoặc điên đảo mãi. Nếu như không dừng lại trong sinh hoạt thực tại, cách nói này biến thành huyền đàm, huyền học, trên sinh hoạt thực tế không có được chút thọ dụng nào. Hiện tượng mê và giác là gì, mê cái gì, giác cái gì, Phật, Bồ Tát và phàm phu khác nhau như thế nào? Chúng ta từ trong đó có thể tìm ra một con đường, tìm được chỗ quy y chân chính.
Năm mươi ba tham vấn trong Kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Phật Bồ Tát. Những biểu hiện của họ chính là tất cả hoạt động trong cuộc sống hằng ngày trước mắt, dù biểu hiện qua các hình tướng nam nữ, già trẻ, các ngành nghề nào trong sinh hoạt thường ngày, tợ hồ như với phàm phu không có gì sai biệt, cũng làm việc, cũng giao tế qua lại, các việc này cũng tương đồng như chúng ta. Như vậy chỗ bất đồng trong tương đồng tại đâu? Ở chỗ tâm thanh tịnh của họ. Sự việc của họ với chúng ta giống nhau không có chút nào sai biệt. Chúng ta mỗi ngày làm việc 8 giờ, họ cũng làm việc 8 giờ. Chúng ta trong sinh hoạt hằng ngày phát sinh phiền não, còn họ thì ngày ngày sinh trí tuệ. Ðó chính là chỗ không giống. Chúng ta sinh hoạt, làm việc, giao tiếp đều sinh phiền não. Họ sinh hoạt, làm việc, giao tiếp đều sinh trí tuệ. Vì sao biết được? Lục Tổ Huệ Năng là một chứng minh, lúc ngài đến Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ, bạch với Ngũ Tổ rằng: “Trong tâm của đệ tử thường sinh trí tuệ”. Chúng ta đọc qua câu này có sự cảm xúc rất sâu sắc, tâm của ngài thường sinh trí tuệ, tâm của ta thường sinh phiền não. Ðây là chỗ bất đồng giữa Phật Bồ Tát và người phàm.
Trí tuệ vì sao sinh, phiền não từ đâu đến, chỉ cần làm cho rõ ràng thì sẽ biết từ đâu để hồi đầu, để nương tựa. Phiền não từ vọng tưởng phân biệt chấp trước mà sinh, đây là điều Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm. Chúng ta mặc áo ăn cơm có vọng tưởng phân biệt chấp trước, đối người tiếp vật vẫn có vọng tưởng phân biệt chấp trước, từ chỗ này sinh phiền não, sinh thất tình ngũ dục, sinh tham sân si mạn, phiền não vĩnh viễn không đoạn. Do đây đủ biết, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là tâm luân hồi, lục đạo luân hồi là do những hiện tượng tâm niệm này tạo thành. Chúng ta hằng ngày sinh hoạt, làm việc, giao tiếp chính là tạo nghiệp luân hồi. Tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tức là mê hoặc điên đảo.
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu (Trí), quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh siêu việt thế gian và xuất thế gian pháp, xa lìa vọng tưởng phân biệt chấp trước tức là chân tâm, Phật tính. Xa lìa vọng tưởng phân biệt chấp trước thì sinh hoạt của chúng ta tức là Bồ Tát hạnh. Mỗi ngày đi làm việc cũng là Bồ Tát hạnh. Từ sáng đến chiều giao tiếp vẫn là Bồ Tát hạnh. Mấu chốt ở tại chỗ này, chính là đem vọng niệm xoay chuyển lại, từ trên quan niệm mà hồi đầu. Xa lìa vọng tưởng phân biệt chấp trước, chỗ dụng chính là chân tâm, “chân tâm ly niệm” là điều mà kinh Ðại thừa thường nói. Niệm là vọng tưởng, vọng tưởng là vọng niệm, trong chân tâm không có vọng niệm, chân tâm là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Dùng tâm thanh tịnh sinh hoạt thì sinh hoạt thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh làm việc thì làm việc thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh giao tiếp thì giao tiếp thanh tịnh, không một thứ nào là không thanh tịnh. Tâm tịnh thân sẽ thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh. Có một số vị đồng tu hỏi: “Tôi làm công việc cần phải suy nghĩ, nếu không suy nghĩ thì công việc của tôi làm sao thành tựu được?”. Lúc bạn làm việc cần phải suy nghĩ, cứ suy nghĩ, khi làm việc xong rồi thì không cần suy nghĩ lại nữa. Làm việc xong rồi lại còn nghĩ về nó tức là vọng tưởng. Niệm có vọng niệm, có chính niệm. Chính niệm là trong phạm vi việc làm của mình, ngoài ra không nghĩ tưởng thứ khác, những thứ khác với ta không tương can gì cả. Cũng vậy, công việc của bạn có thể làm được tốt, phiền não vọng tưởng ít đi, trí tuệ sẽ tăng trưởng, công việc sẽ rất thuận lợi. Tất cả thời, tất cả chỗ biết trưởng dưỡng tâm từ bi, thì dù cho việc gì cũng đều sẽ làm tốt, cuộc sống lại càng vui vẻ thêm hơn. Chúng ta cũng cần nên học đại sư Huệ Năng “Trong tâm đệ tử thường sinh trí tuệ”.