ChanLy
12-21-2011, 04:21 PM
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2500 năm và nó lan toả từ Ấn Độ ra khắp nơi. Do đó, việc hình thành các bộ phái khác nhau có phương pháp tu học và cách giải thích khác nhau về giáo lý cho thích hợp với tình hình của mỗi xã hội mỗi thời điểm là chuyện tất yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái này.
Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ II (tức là khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni nhập diệt). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những thay đổi lớn lao nhưng đủ để gây ra sự tách biệt tăng đoàn thành Đại Chúng bộ (Mahàsamghika) mà đa số là các tì kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại bảo thủ các giới luật nguyên thuỷ hình thành Thượng Tọa bộ (Theravada). Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn.
Sự phân phái ở Ấn Độ.
Các phái bộ trong Đại Chúng bộ
Đại Chúng bộ có trung tâm hoạt động tại Amgotara, thuộc vùng Trung Ấn. Nguyên có hệ tư tưởng cấp tiến nên đã xảy ra việc phân hoá trước. Các cuộc phân hoá này tất cả đều tách ra từ Đại Chúng Bộ và hình thành tổng cộng thành 9 bộ phái trong đó quan trọng về mặt lý luận bao gồm:
Nhất Thuyết bộ (Ekavyavahàrikah) cho rằng mọi pháp thế gian hay xuất thế đều là giả không có thực thể.
Thuyết Xuất Thế bộ, hay Chế Đa Sơn bộ, (Lokottaravàdinàh) quan niệm pháp thế gian là do vọng tưởng mà ra, từ đó sinh phiền não, phiền não tạo nghiệp, do nghiệp mới có quả báo. Do đó, các pháp thế gian đều là hư vọng. Bộ phái này thừa nhận các pháp xuất thế gian là thật có.
Kê Dận bộ (Kankkutikàh) cho rằng Kinh tạng và Luật tạng là giáo lý do Đức Phật thuyết tùy căn cơ và hoàn cảnh, chỉ có Luận tạng mới là giáo lý chân thật vì nó giải thích ý nghĩa của Kinh và Luật.
Đa Văn bộ (Bàhusrutiyàh), do Yajnavalkya cổ xuý, cho rằng chỉ có ngũ ấm (vô thường, khổ, không, vô ngã và Niết Bàn) và Bát chánh đạo mới là pháp xuất thế; những lời dạy khác của Thích Ca là thế gian pháp.
Thuyết Giả bộ (Prajnàptivadinàh), do Mahakatyayana chủ xướng, phân biệt giáo lý thành nhiều cấp độ: giả lập, chân thật, có ý nghĩa tương đối, ý nghĩa tuyệt đối; các pháp thế gian và xuất thế gian đều có một phần là giả thuyết.
Các bộ phái khác là Chế Đa Sơn bộ (Caityasailàh), Tây Sơn Trú bộ (Aparasailàh) và Bắc Sơn Trú bộ (Uttarasailàh).
Các phái bộ trong Thượng Tọa bộ
Sự thay đổi về điều kiện xã hội và điạ lý và sự phân hoá trong Đại Chúng bộ có thể là nguyên nhân gây ra sự chia phái của Thượng Tọa bộ thành tổng cộng hơn 10 bộ. Các phái có sự chuyển hoá về lý luận bao gồm:
Nhất Thiết Hữu bộ (Saivàstivàdàh), hay Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, Thuyết Nhân bộ (Hetuvàdàh), đề cao Luận tạng và cho rằng tất cả các pháp đều là thực hữu.
Từ khi phân phái Thượng Tọa bộ yếu thế hơn, chuyển căn cứ đến Tuyết Sơn đổi tên thành Tuyết Sơn bộ (Haimavàtàh).
Độc Tử bộ (Vatsipatriyàli) tách ra từ Nhất Thiết Hữu bộ. Bộ này vẫn đề cao Luận tạng, nhưng điểm khác biệt là chỉ dựa vào Pháp uẩn túc luận (tương truyền do ngài Xá Lợi Phất (Sariputra) soạn).
Sau đó, Độc Tử bộ phân hóa và thành bốn bộ phái là Pháp Thượng bộ (Dharmottariyàh), Hiền Trú bộ (Dhadrayàniyàh), Chánh Lượng bộ (Sammitiyàh) và Mật Lâm Sơn bộ (Sandagirikàh).
Hóa Địa bộ (Mahìsarakàh). Hình thành từ Nhất Thiết Hữu bộ, sau khi Phật nhật tịch khoảng 300 năm, và do sư Hóa Địa, nguyên là một Bà La Môn thông thạo Vệ Đà, chủ xướng. Ông thường vận dụng hiểu biết của mình để giảng giải kinh Phật.
Pháp Tạng bộ (Dharmaguptakàh), do Pháp tạng chủ xướng. Pháp Tạng (Dharmagupta) là đệ tử của Tôn giả Mục Kiền Liên (Moggallàna). Pháp Tạng đã kết tập những lời giảng của thầy và lập thành bộ phái mới, tách ra từ Hoá Địa bộ, chia giáo lý thành năm tạng là Kinh, Luật, Luận, Chú và Bồ tát tạng.
Ẩm Quang bộ (Kàsyapiyàh), do sư Ẩm Quang (Kàsyapa) tách ra từ Nhất Thiết Hữu bộ, cho rằng những lời Phật dạy gồm hai dạng: một nhằm đối trị phiền não, và còn lại là để chỉ ra những bất ổn của các học thuyết ngoại đạo.
Ngoài ra, lần phân hoá cuối cùng của Nhất Thiết Hữu bộ cũng tạo ra Kinh Lượng bộ (Sautràntikàh), hay còn gọi là Thuyết Chuyển bộ (Samkràntivàdàh), xem Kinh tạng mới là giáo lý quan trọng nhất.
Các nguyên do dẫn đến sự phân phái
1/-Từ thời Phật còn tại thế, ngài đã dùng rất nhiều biện pháp, cách thức và công cụ khác nhau để tuỳ theo trình độ, khả năng liễu đạo và tuỳ theo hoàn cảnh của đối tượng để truyền giảng.
2/-Ngôn ngữ chỉ là phương tiện được mượn để Thích Ca chỉ rõ chân lý cho người nghe. Chính vì sự linh hoạt, mềm dẻo và phong phú trong Phật giáo đã dẫn đến nhiều lý giải khác nhau về các lời truyền giảng.
3/-Phật giáo đã tồn tại trong thời gian rất dài và lan toả ra nhiều địa bàn khác nhau. Các đặc điểm của tôn giáo này sẽ chuyển vận để thích nghi môi trường và phù hợp với phong tục tập quán của từng con người, từng cộng đồng khác nhau trong xã hội cũng như các nền văn minh riêng biệt.
4/-Cốt tuỷ của đạo Phật không phải là các hình thức cứng nhắc của lễ đạo hay các lời sấm giảng mà là các phương pháp thực hành đôi khi dị biệt để dẫn dắt hành giả chứng ngộ được chân lý tối thượng. Sự hiện hữu của sự phân hoá về cách tu học, lý giải và chứng đạo cũng là một phản ánh thực tế đặc điểm của đạo Phật. Sự khác biệt này không chỉ tìm thấy được qua số lượng (lên đến vài trăm) các bộ phái trong Phật giáo mà còn có thể thấy được qua các hình thức bề ngoài chẳng hạn như là các kiến trúc, tác văn và các tượng Phật ở từng nơi, từng thời kỳ.
5/-Ngoài ra, khi số lượng người trong tăng đoàn thực sự đủ lớn thì việc khác biệt nhau về quan điểm hầu như là thực tế tất yếu. Các quan điểm khác nhau về giới luật hay hình thức tu học dù chỉ là những điểm nhỏ cũng là một nguyên nhân đủ để tạo được các cuộc phân phái. Những cuộc phân phái xảy ra thời vua Asoka phần lớn là vì sự sai biệt về giáo luật dù chỉ là các điểm nhỏ nhặt.
6/-Ngay trong thời kì đầu của giáo hội, việc chuyên biệt hoá đã xảy ra cho từng nhóm tu học. Mỗi nhóm chuyên biệt có thể giữ một trọng trách để ghi nhớ một bộ phận khác nhau của giáo lý. Những nhóm này thường chỉ nghiên cứu, học hỏi sâu trong các chuyên phần mà họ có trách nhiệm. Đây cũng là nguyên nhân đưa đến phân phái sau này.
7/-Trong mấy trăm năm đầu hình thành giáo hội, thì việc ghi chép lại giáo lý chưa được tiến hành. Giáo lý chỉ được truyền miệng và đọc tụng bằng trí nhớ và thiếu hệ thống ghi chép chặt chẽ. Kinh văn do từ các cá nhân nhớ, hiểu và đọc lại rất có thể nảy sinh các dị biệt.
8/-Trong toàn bộ giáo hội không phải lúc nào cũng hoàn toàn trong sạch, có nhiều thời kì vì lòng tham một số cá nhân đã tìm cách giành quyền lãnh đạo (dù rằng điều này hoàn toàn đi ngược với giáo lý) cũng là nguyên nhân gây chia rẽ và phân phái.
Dù rằng Phật giáo đã có nhiều phân nhóm, nhưng tựu trung đây vẫn là tôn giáo ít bạo động nhất. Chủ trương một cuộc sống hoà hợp với môi trường. Trong hơn 2500 lịch sử, Phật giáo đã chứng minh rằng đây là một tôn giáo của hòa bình.
Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ II (tức là khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni nhập diệt). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những thay đổi lớn lao nhưng đủ để gây ra sự tách biệt tăng đoàn thành Đại Chúng bộ (Mahàsamghika) mà đa số là các tì kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại bảo thủ các giới luật nguyên thuỷ hình thành Thượng Tọa bộ (Theravada). Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn.
Sự phân phái ở Ấn Độ.
Các phái bộ trong Đại Chúng bộ
Đại Chúng bộ có trung tâm hoạt động tại Amgotara, thuộc vùng Trung Ấn. Nguyên có hệ tư tưởng cấp tiến nên đã xảy ra việc phân hoá trước. Các cuộc phân hoá này tất cả đều tách ra từ Đại Chúng Bộ và hình thành tổng cộng thành 9 bộ phái trong đó quan trọng về mặt lý luận bao gồm:
Nhất Thuyết bộ (Ekavyavahàrikah) cho rằng mọi pháp thế gian hay xuất thế đều là giả không có thực thể.
Thuyết Xuất Thế bộ, hay Chế Đa Sơn bộ, (Lokottaravàdinàh) quan niệm pháp thế gian là do vọng tưởng mà ra, từ đó sinh phiền não, phiền não tạo nghiệp, do nghiệp mới có quả báo. Do đó, các pháp thế gian đều là hư vọng. Bộ phái này thừa nhận các pháp xuất thế gian là thật có.
Kê Dận bộ (Kankkutikàh) cho rằng Kinh tạng và Luật tạng là giáo lý do Đức Phật thuyết tùy căn cơ và hoàn cảnh, chỉ có Luận tạng mới là giáo lý chân thật vì nó giải thích ý nghĩa của Kinh và Luật.
Đa Văn bộ (Bàhusrutiyàh), do Yajnavalkya cổ xuý, cho rằng chỉ có ngũ ấm (vô thường, khổ, không, vô ngã và Niết Bàn) và Bát chánh đạo mới là pháp xuất thế; những lời dạy khác của Thích Ca là thế gian pháp.
Thuyết Giả bộ (Prajnàptivadinàh), do Mahakatyayana chủ xướng, phân biệt giáo lý thành nhiều cấp độ: giả lập, chân thật, có ý nghĩa tương đối, ý nghĩa tuyệt đối; các pháp thế gian và xuất thế gian đều có một phần là giả thuyết.
Các bộ phái khác là Chế Đa Sơn bộ (Caityasailàh), Tây Sơn Trú bộ (Aparasailàh) và Bắc Sơn Trú bộ (Uttarasailàh).
Các phái bộ trong Thượng Tọa bộ
Sự thay đổi về điều kiện xã hội và điạ lý và sự phân hoá trong Đại Chúng bộ có thể là nguyên nhân gây ra sự chia phái của Thượng Tọa bộ thành tổng cộng hơn 10 bộ. Các phái có sự chuyển hoá về lý luận bao gồm:
Nhất Thiết Hữu bộ (Saivàstivàdàh), hay Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, Thuyết Nhân bộ (Hetuvàdàh), đề cao Luận tạng và cho rằng tất cả các pháp đều là thực hữu.
Từ khi phân phái Thượng Tọa bộ yếu thế hơn, chuyển căn cứ đến Tuyết Sơn đổi tên thành Tuyết Sơn bộ (Haimavàtàh).
Độc Tử bộ (Vatsipatriyàli) tách ra từ Nhất Thiết Hữu bộ. Bộ này vẫn đề cao Luận tạng, nhưng điểm khác biệt là chỉ dựa vào Pháp uẩn túc luận (tương truyền do ngài Xá Lợi Phất (Sariputra) soạn).
Sau đó, Độc Tử bộ phân hóa và thành bốn bộ phái là Pháp Thượng bộ (Dharmottariyàh), Hiền Trú bộ (Dhadrayàniyàh), Chánh Lượng bộ (Sammitiyàh) và Mật Lâm Sơn bộ (Sandagirikàh).
Hóa Địa bộ (Mahìsarakàh). Hình thành từ Nhất Thiết Hữu bộ, sau khi Phật nhật tịch khoảng 300 năm, và do sư Hóa Địa, nguyên là một Bà La Môn thông thạo Vệ Đà, chủ xướng. Ông thường vận dụng hiểu biết của mình để giảng giải kinh Phật.
Pháp Tạng bộ (Dharmaguptakàh), do Pháp tạng chủ xướng. Pháp Tạng (Dharmagupta) là đệ tử của Tôn giả Mục Kiền Liên (Moggallàna). Pháp Tạng đã kết tập những lời giảng của thầy và lập thành bộ phái mới, tách ra từ Hoá Địa bộ, chia giáo lý thành năm tạng là Kinh, Luật, Luận, Chú và Bồ tát tạng.
Ẩm Quang bộ (Kàsyapiyàh), do sư Ẩm Quang (Kàsyapa) tách ra từ Nhất Thiết Hữu bộ, cho rằng những lời Phật dạy gồm hai dạng: một nhằm đối trị phiền não, và còn lại là để chỉ ra những bất ổn của các học thuyết ngoại đạo.
Ngoài ra, lần phân hoá cuối cùng của Nhất Thiết Hữu bộ cũng tạo ra Kinh Lượng bộ (Sautràntikàh), hay còn gọi là Thuyết Chuyển bộ (Samkràntivàdàh), xem Kinh tạng mới là giáo lý quan trọng nhất.
Các nguyên do dẫn đến sự phân phái
1/-Từ thời Phật còn tại thế, ngài đã dùng rất nhiều biện pháp, cách thức và công cụ khác nhau để tuỳ theo trình độ, khả năng liễu đạo và tuỳ theo hoàn cảnh của đối tượng để truyền giảng.
2/-Ngôn ngữ chỉ là phương tiện được mượn để Thích Ca chỉ rõ chân lý cho người nghe. Chính vì sự linh hoạt, mềm dẻo và phong phú trong Phật giáo đã dẫn đến nhiều lý giải khác nhau về các lời truyền giảng.
3/-Phật giáo đã tồn tại trong thời gian rất dài và lan toả ra nhiều địa bàn khác nhau. Các đặc điểm của tôn giáo này sẽ chuyển vận để thích nghi môi trường và phù hợp với phong tục tập quán của từng con người, từng cộng đồng khác nhau trong xã hội cũng như các nền văn minh riêng biệt.
4/-Cốt tuỷ của đạo Phật không phải là các hình thức cứng nhắc của lễ đạo hay các lời sấm giảng mà là các phương pháp thực hành đôi khi dị biệt để dẫn dắt hành giả chứng ngộ được chân lý tối thượng. Sự hiện hữu của sự phân hoá về cách tu học, lý giải và chứng đạo cũng là một phản ánh thực tế đặc điểm của đạo Phật. Sự khác biệt này không chỉ tìm thấy được qua số lượng (lên đến vài trăm) các bộ phái trong Phật giáo mà còn có thể thấy được qua các hình thức bề ngoài chẳng hạn như là các kiến trúc, tác văn và các tượng Phật ở từng nơi, từng thời kỳ.
5/-Ngoài ra, khi số lượng người trong tăng đoàn thực sự đủ lớn thì việc khác biệt nhau về quan điểm hầu như là thực tế tất yếu. Các quan điểm khác nhau về giới luật hay hình thức tu học dù chỉ là những điểm nhỏ cũng là một nguyên nhân đủ để tạo được các cuộc phân phái. Những cuộc phân phái xảy ra thời vua Asoka phần lớn là vì sự sai biệt về giáo luật dù chỉ là các điểm nhỏ nhặt.
6/-Ngay trong thời kì đầu của giáo hội, việc chuyên biệt hoá đã xảy ra cho từng nhóm tu học. Mỗi nhóm chuyên biệt có thể giữ một trọng trách để ghi nhớ một bộ phận khác nhau của giáo lý. Những nhóm này thường chỉ nghiên cứu, học hỏi sâu trong các chuyên phần mà họ có trách nhiệm. Đây cũng là nguyên nhân đưa đến phân phái sau này.
7/-Trong mấy trăm năm đầu hình thành giáo hội, thì việc ghi chép lại giáo lý chưa được tiến hành. Giáo lý chỉ được truyền miệng và đọc tụng bằng trí nhớ và thiếu hệ thống ghi chép chặt chẽ. Kinh văn do từ các cá nhân nhớ, hiểu và đọc lại rất có thể nảy sinh các dị biệt.
8/-Trong toàn bộ giáo hội không phải lúc nào cũng hoàn toàn trong sạch, có nhiều thời kì vì lòng tham một số cá nhân đã tìm cách giành quyền lãnh đạo (dù rằng điều này hoàn toàn đi ngược với giáo lý) cũng là nguyên nhân gây chia rẽ và phân phái.
Dù rằng Phật giáo đã có nhiều phân nhóm, nhưng tựu trung đây vẫn là tôn giáo ít bạo động nhất. Chủ trương một cuộc sống hoà hợp với môi trường. Trong hơn 2500 lịch sử, Phật giáo đã chứng minh rằng đây là một tôn giáo của hòa bình.