PDA

View Full Version : Tích hợp Vật lý & Phật học?



totha_huong
01-18-2011, 04:48 PM
Liệu có thể tìm một dạng học thuyết mô tả được thống nhất các hiện tượng vật lý và những hiện tượng thuộc phạm vi tâm linh. Đó sẽ là một dạng lý thuyết thống nhất lớn mà con người có thể nghĩ đến. Trong hiện trạng những vấn đề tâm linh vẫn đang ở trong trong phạm trù triết học thì lý thuyết thống nhất đó có thể là một sự tích hợp giữa vật lý và triết học.


http://totha.vn/hinh/ttkhtttg/2.png

Theo Einstein thì Phật học có thể là tiền thân của một sự tích hợp như vậy. Ông nói: "Nếu có một tôn giáo nào thích nghi được với những nhu cầu khoa học tiên tiến thì đó là Phật giáo". (If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).

Trong vòng hơn 2500 năm Phật học đã tích lũy quá trình suy tư của nhiều tu sĩ minh triết để hình thành một học thuyết sâu sắc về thế giới khách quan lẫn thể giới tâm linh. Có thể nói Phật học là một học thuyết về nguyên lý đã bao trùm cả vật lý học (chuyên nghiên cứu thế giới khách quan) và cả tâm linh học (chuyên nghiên cứu những vấn đề thuộc tâm linh - theo Phật học thì tâm linh là một phạm trù song đối với thể xác), vậy thì Phật học có thể nói là một học thuyết có tính thống nhất cao hơn cả vật lý.

Tuy nhiên chúng ta cũng cần phân biệt hai phương thức nghiên cứu giữa Vật lý và Phật học.

A. Phương thức nghiên cứu của Phật học là hướng nội vào tâm linh con người

Theo lịch sử Phật giáo thì Thái tử Tất Đạt Đa sau nhiều năm tu khổ hạnh trong rừng già đã tìm thấy chân lý của kiếp sống con người, của các quy luật trong vũ trụ. Liệu có một cơ sở khoa học nào cho phương thức hướng nội này chăng?

Phương thức này có thể dựa trên cơ sở của nguyên lý vị nhân. Nguyên lý vị nhân là nguyên lý theo đó ta thấy vũ trụ như thế này bởi vì nếu vũ trụ khác đi thì ta không thể tồn tại được để mà quan sát nó. Nguyên lý vị nhân có thể là sự cộng hưởng, sự hòa âm, sự giao cảm giữa vũ trụ và con người. Nếu như nguyên lý vị nhân (anthropic principle) là đúng thì rất có thể tâm linh con người có một mối liên hệ mật thiết với vũ trụ, như thế biết khai thác tìm tòi trong tâm linh người ta có thể khám phá ra vũ trụ (so sánh với Socrate: biết bản thân con người sẽ biết được cả vũ trụ). Phương thức hướng nội vào tâm linh thực hiện qua thiền (meditation). Thiền có nhiều dạng thức tùy theo môn phái và lộ trình, giúp đạt nhiều mục tiêu: giác ngộ về lẽ sống, tư duy về quy luật của vũ trụ, kỹ thuật khí công, khơi dậy những tiềm năng kỳ lạ của con người,...

Thực tế với phương thức nghiên cứu này Phật học đã đạt những thành quả về cả hai mặt liên quan đến con người và vũ trụ. Riêng về phần con người Phật học đã đi sâu vào những phần sâu thẳm của tâm linh, vượt xa giới hạn của tâm lý học, của học thuyết Freud. Hiện nay khoa thần kinh học (neuroscience) cho rằng các phát hiện sinh học của bộ não có thể tương hợp với nhau nếu được tích hợp với lý thuyết Freud, song điều đó cũng chưa thể giải thích được các khía cạnh sâu thẳm của tâm linh, các công năng của thiền.

B. Phật học ngoài tâm linh con người còn phát hiện ra nhiều bản chất quan trọng của vũ trụ của thế giới bên ngoài nhờ sử dụng cộng hưởng của tâm linh với vũ trụ.

1. Vấn đề chân không

Như chúng ta biết trong lý thuyết lượng tử có thể nói vấn đề chân không là vấn đề quan trọng số một. Chân không không phải là một "môi trường", trong đó không có gì cả, trái lại chân không là một loại "ether" đặc biệt chứa những thăng giáng phần lớn của trường lượng tử điện từ. Chân không có thể chứa 3 khả năng đối với vật lý hiện đại:

- Vì chứa những thăng giáng điện từ, cho nên có thể tính được năng lượng chân không theo phương pháp phân tích Fourier (dao động tử) và thấy rằng chân không có một năng lượng khổng lồ. Một hiện tượng quan trọng xảy ra trong chân không là lực Casimir và công nghệ nanô không thể không tính đến lực Casimir.

- Năng lượng chân không có thể là năng lượng tối gây nên quá trình giãn nở có gia tốc của vũ trụ.

- Cuối cùng là một khả năng quan trọng, có thể đó là nguồn gốc để giải quyết bài toán thống nhất. Nhà vật lý người Nga Andrei Sakharov đã đưa ra một cách nhìn táo bạo vào năm1967: nguồn gốc của hấp dẫn có thể là những thăng giáng của chân không với sự hiện diện của vật chất, như vậy từ chân không ta có hấp dẫn và các tia sáng sẽ bị cong vì hiện tượng khúc xạ của chân không?

Hiện nay nhiều nhà vật lý quan niệm rằng không - thời gian được hình thành từ những thăng giáng lượng tử của chân không ( hình 1). Như vậy từ chân không chúng ta có tất cả. Một điều kỳ diệu là Phật học cũng đi đến một kết luận như thế!

Phật học cũng xem chân không như nguồn gốc của mọi hiện tượng và không phân biệt chân không với hiện tượng qua luận thuyết nổi tiếng "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc". Trong Bát nhã Tâm kinh, Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất! Thế giới hiện tượng hay Sắc này là Không, và Không quả thực là thế giới hiện tượng. Không không khác với thế giới hiện tượng hay Sắc, thế giới hiện tượng hay Sắc không khác với Không. Cái gì là thế giới hiện tượng thì cái đó là Không, cái gì là Không thì cái đó là thế giới hiện tượng".

2. Vấn đề đa vũ trụ:

Trong Vật lý học người ta nói đến những vũ trụ song song cấu thành đa vũ trụ. Người ta phân các vũ trụ song song thành 4 mức, ứng với 4 góc ở hình vẽ 1.



http://files.chungta.com/Image.aspx/image=gif/db0a9c25bd5a44ad9bde8e034c11fe4e-4%20goc.gif/4%20goc.gif
Hình 1. Hình này có 4 góc

I/ Góc trái trên: các vũ trụ song song mức I, cư trú trong cùng một bong bóng (bubble), quy luật vật lý giống nhau, các điều kiện ban đầu có thể khác nhau, sự tồn tại của chúng dựa trên CMB Þ vũ trụ vô cùng, vật chất phân bố đều trong vũ trụ.

II/ Góc trái dưới: các vũ trụ song song mức II, cấu thành bởi nhiều bong bóng, có cùng những phương trình cơ bản vật lý song các hằng số vật lý, các hạt cơ bản, số chiều không gian có thể khác, sự tồn tại của chúng dựa trên lý thuyết lạm phát hỗn độn vĩnh cửu.

III/ Góc phải dưới: các vũ trụ song song mức III: có các tính chất như ở mức I&II, có nguyên lý unitarity, nguyên lý này đúng ngay cả đối với hấp dẫn lượng tử; theo mối tương quan AdS / CFT có thể hiểu được rõ ràng hơn nghịch lý thông tin trong lỗ đen. Trạng thái sống, chết của con mèo Schrodinger thuộc 2 vũ trụ cổ điển song song.

IV/ Góc phải trên: nhiều cấu trúc toán học khác nhau (với những phương trình vật lý khác nhau) sẽ cho những vũ trụ song song khác nhau, sự tồn tại mức IV dựa trên phỏng thuyết thực tại toán học º thực tại vật lý, có thể kiểm nghiệm nhờ một lý thuyết TOE.

Trong Phật học, vũ trụ cũng mang tính đa nguyên. Phật giáo phân thế giới thành 3 loại: Tiểu thiên, Trung thiên & Đại thiên. Đại thiên thế giới gồm khoảng một tỷ thế giới. Cách đây hơn 2500 năm Phật học đã biết ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có hằng hà sa số thể giới khác.

Tuy giữa các thế giới song song trong vật lý học và các thế giới Phật học chúng ta chưa thể thiết lập một mối tương hợp đồng cấu hoặc đẳng cấu. Điều đáng nói ở đây là khái niệm đa vũ trụ là quan điểm tạo nên sự thống nhất giữa vật lý học và Phật học trong nhận định về vũ trụ.

Một điểm đáng chú ý nữa là trong vật lý học cũng như trong phật học người ta đều nói đến nhiều dạng hình học của vũ trụ.

totha_huong
01-18-2011, 04:52 PM
3. Tính vô thường:


http://files.chungta.com/Image.aspx/image=gif/5621cb46f4d24a03841774e11340c81f-Chan%20khong.gif/Chan%20khong.gif

Các thăng giáng của chân không lượng tử (phóng theo tranh Bọt thời gian của hoạ sĩ Jean-Michenl Joy, L'Ecume du temps, Saint Etienne, 1990).

Từ những thăng giáng đó đã hình thành vũ trụ

Trong vật lý học người ta quan niệm rằng mọi vật đều luôn biến động. Ví như vũ trụ cũng luôn thay đổi, hiện nay vũ trụ đang giãn nở, xuất phát từ một bigbang.

Lúc vũ trụ được 10-35 giây xảy ra quá trình nở lạm phát (inflation) và kết thúc vào thời điểm 10-32 giây. Đây là một quá trình giãn nở bộc phát của vũ trụ: trong một thời đoạn ngắn ngủi, kích thước của vũ trụ đã tăng lên 1050 lần. Quá trình nở lạm phát có thể bắt nguồn với một dạng năng lượng tối.

Sau Bigbang 10-33 giây vũ trụ ở vào trạng thái plasma của quark và gluon (PQG ). Trong trạng thái này quark chuyển động tự do và tương tác với nhau bằng trao đổi gluon. Lúc vũ trụ được 10 - 6 giây thì hình thành các hadron.

Lúc vũ trụ được 100 giây thì các hạt nhân nguyên tử được hình thành.

Lúc vũ trụ được 300.000 năm tuổi thì bức xạ tách khỏi vật chất và dẫn đến CMB (Cosmic Microwave Background - bức xạ tàn tư của vũ trụ). Sau đó vũ trụ nguội dần và nhiều quá trình chuyển pha đã xảy ra. Vậy vũ trụ luôn biến đổi. Thậm chí các hằng số vật lý có thể thay đổi theo không gian và thời gian. Các phương trình vật lý đều chứa những hằng số như c-vận tốc ánh sáng, h-hằng số Planck, G-hằng số hấp dẫn. Người ta vẫn cho rằng đó là những đại lượng không thay đổi theo không gian và thời gian.



http://files.chungta.com/Image.aspx/image=gif/ca241d4539504442872d68a23d44457f-Mang.gif/Mang.gif

Hai màng chuyển động trong một không gian nhiều chiều và va chạm nhau

Theo nhiều kịch bản vũ trụ luôn tồn tại. Trước Bigbang vũ trụ có kích thước lớn vô cùng, sau đó co lại và vào thời điểm Bigbang trở thành nhỏ như để chui qua một lỗ kim xong giãn nở trở lại.

Theo kịch bản của Gabriele Veneziano, vũ trụ nguyên thuỷ đã co lại từ những thăng giáng và tạo nên những lỗ đen, trong những lỗ đen này đã xảy ra những bigbang, trong số đó có Bigbang của chúng ta. Như vậy mỗi lỗ đen có thể tạo ra những vũ trụ riêng của đa vũ trụ. Một điều có thể khẳng định: quá trình chuyển tiếp giữa "tiền" và "hậu" bigbang vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Người ta cho rằng có thể có thông tin về thời kỳ tiền bigbang nhờ thu các sóng hấp dẫn phát sinh từ thời kỳ này, dấu tích của chúng sẽ là những thăng giáng trên phông của bức xạ tàn dư.

Phật học có quan điểm vô thường khẳng định sự biến đổi thường trực của vũ trụ như trong vật lý học.

Vô thường có nghĩa là không thường, không mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà luôn thay đổi hình dạng. Đi từ trạng thái hình thành, cao to, thấp nhỏ, tan rã v.v.. Đạo Phật gọi đây là những giai đoạn thay đổi: thành, trụ, hoại, không. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ đến lớn như hạt cát, thân con người, đến lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trời, đều nằm trong định luật vô thường.

Mọi vật trên đời này đều phải thay đổi và hoại diệt, không vật gì thường hằng dù chỉ trong phút giây (birth, maturity, transformation and destruction).

Quan điểm vô thường của Phật học trùng hợp một cách chính xác với quan điểm mọi vật đều biến đổi trong vật lý học.

C. Kết luận

Phật học không những có những mối tương đồng với vật lý trong các lĩnh vực vũ trụ học, các hạt cơ bản, mà còn nhiều mối tương đồng khác với sinh học, tâm lý học, phân tâm học (psychoanalysis), tâm lý trị liệu (psychotherapy),... Tư tưởng Phật học có thể là suối nguồn dồi dào cho khoa học nói chung.

Tích hợp các lý thuyết lớn trong vật lý với những tư tưởng Phật giáo hy vọng sẽ dẫn đến một "lý thuyết thống nhất" bao trùm vũ trụ và tâm linh con người.

Diệu Quán Sát Trí: Từ một góc nhìn


http://hoalinhthoai.com/uploads/hoalinhthoai_1226846190_NrcJ.jpg

Ngày nay, dưới ánh sáng của những phát minh khoa học, khi mà trụ cột giáo lý của các tôn giáo dựa trên sự mặc khải và thần quyền ít nhiều đều bị lung lay, thì phần tinh hoa của đạo Phật lại càng có thêm điều kiện để hiển lộ

“Tôn giáo trong tương lai phải là một tôn giáo mang tầm vóc vũ trụ. Tôn giáo đó phải vượt lên trên một Thượng Đế được xây dựng theo hình ảnh con người, và tránh được giáo điều cùng thần học. Vì bao hàm được cả yếu tố tự nhiên và tinh thần, nó phải đặt nền tảng trên một cảm thức tôn giáo được phát khởi từ kinh nghiệm về vạn hữu như là một Thể Nhất Như đầy ý nghĩa, trong thế giới tự nhiên lẫn tinh thần. Đạo Phật đáp ứng được điều này. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu được với những yêu cầu của khoa học hiện đại thì đó sẽ là đạo Phật”. (The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).


Đây là câu nói nổi tiếng được trích dẫn rất nhiều và được cho là của Einstein, từ những ghi chép chưa được in thành sách, nêu một nhận định thâm trầm về đạo Phật. Do chưa tra cứu được chính xác chúng nằm ở trong tác phẩm nào của Einstein, nên chúng tôi chỉ có thể dựa vào những kết quả sưu tầm trên mạng. Xuất xứ của câu nói này chưa rõ ràng, vì nội dung của nó có thay đổi chút đỉnh theo từng Website. Đây có thể chỉ là câu nói của nhà bác học Einstein trong một buổi mạn đàm hoặc trong lúc trà dư tửu hậu, hoặc trong một lá thư gởi cho bè bạn. Song đó có phải là câu nói của vị cha đẻ bom nguyên tử hay không, không quan trọng bằng nội dung của nó là gì. Dù chưa khẳng định được một cách chắc chắn tính xác thực của nó, song phải là bậc thông tuệ có một kiến giải sâu xa về bản chất của tôn giáo mới có câu nói thâm trầm dường đó.
Ngày nay, dưới ánh sáng của những phát minh khoa học, khi mà trụ cột giáo lý của các tôn giáo dựa trên sự mặc khải và thần quyền ít nhiều đều bị lung lay, thì phần tinh hoa của đạo Phật lại càng có thêm điều kiện để hiển lộ, phần tinh hoa mà trước kia ta chỉ hiểu phần lớn bằng khái niệm, qua cách diễn tả hoành tráng của kinh điển đại thừa Ấn Độ hoặc qua cách diễn tả quá bình dị bằng trực giác của các Thiền sư Trung Quốc về Thực tướng. Vật lý học hiện đại cho ta nhiều ánh sáng để hiểu thêm về cái thế giới “trùng trùng duyên khởi” kỳ ảo của Hoa Nghiêm. Bất kỳ mọi tác động nào diễn ra trong vũ trụ đều tạo nên vô vàn các ba động vi tế lan truyền trong cái thế giới vật lý, mà trong đó tất cả vạn hữu được nối kết và đan xen nhau một cách vi diệu bất khả tư nghì. Nhà khoa học thiên tài Stephen Hawking đã diễn tả lại một tư tưởng tương tự như “Đồng thời cụ túc tương ưng môn” của Hoa Nghiêm, theo tinh thần vật lý hiện đại, bằng một hình tượng vô cùng thơ mộng và sinh động: “Một con bướm vỗ cánh ở Tokyo có thể gây ra mưa tại Công viên trung tâm New York”!1. Điều này không chỉ đúng với thế giới vật lý mà có lẽ còn đúng cả trong thế giới tư tưởng. Cuốn “Đạo vật lý” (The Tao of Physics) của nhà vật lý học người Mỹ gốc Áo Fritjof Capra đã bắt thêm một nhịp cầu tuyệt diệu nữa giữa vật lý học hiện đại với huyền học phương Đông, nghĩa là giữa đỉnh cao của khoa học với những nền triết giáo vắng bóng “một Thượng Đế được xây dựng theo hình ảnh con người” (personal God).


Có nhiều câu nói rất sâu sắc không ghi xuất xứ, được gán cho Einstein, mà nội dung của chúng lại gần gũi với tinh thần đạo Phật một cách lạ thường. Song điều khiến chúng ta thấy gần gũi với nhà bác học Einstein không phải là cái đầu óc uyên bác tột đỉnh với những phát hiện phi thường vượt quá tầm hiểu biết của đa số chúng ta, mà là cái tâm hồn nghệ sĩ nơi ông. Chính cái tâm hồn nghệ sĩ đó đã giúp ông nhìn ra toàn bộ cấu trúc của vũ trụ trong một viễn tượng thơ của sự hòa điệu vĩ đại, dù ông đã phải loại bỏ hằng số vũ trụ (cosmological constant) ra khỏi mô hình vũ trụ tĩnh (steady-state universe) của mình để nó tương thích với mô hình vũ trụ giãn nở trong thực tế, sau phát hiện của nhà thiên văn Hubble vào năm 1922, và gọi đó là sai lầm lớn nhất trong đời (greatest blunder). Nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào việc đó để kết luận rằng: ông đã sai trong lĩnh vực sở trường là khoa học, thì điều đó có nghĩa rằng những nhận định về của ông về đạo Phật cũng sai nốt! Nghĩa là đạo Phật không thể đáp ứng được các yêu cầu của khoa học hiện đại, và cuối cùng con người cũng phải cần tới Thượng Đế. Chúng ta hãy gác vấn đề đó lại cho những ai ham tranh luận, mà chỉ nên tìm hiểu xem những phát hiện của ông có gì gần gũi với đạo Phật, và có đem lại gì cho sự an lạc tâm linh cho chúng ta hay không. Điều đó mới thực sự quan trọng hơn những cuộc tranh luận rối rắm mà kết quả vẫn luôn luôn để ngỏ.

totha_huong
01-18-2011, 04:52 PM
Einstein, với cái đầu uyên bác tuyệt đỉnh, có thể được xem là người đại diện của khoa học phương Tây hiện đại; còn nhà thơ Tagore có thể được xem là người đại diện cho truyền thống thơ ca và triết giáo phương Đông. Vậy mà cả hai lại gặp nhau, qua một lần đối thoại hy hữu, ở một điểm chung khi nhìn về thực tướng của vũ trụ như một sự hòa điệu vĩnh hằng (constant harmony)2 giữa thế giới vi mô và thế giới vĩ mô, tức hình ảnh vũ trụ như là “một Thể Nhất Như đầy ý nghĩa” (meaningful unity). Suốt đời mình, Einstein vẫn không ngừng nỗ lực xây dựng Lý thuyết Trường thống nhất (Unified Field Theory) hay là Lý thuyết về Vạn hữu (Theory of Everything: TOE) để hy vọng giải thích được tất cả các hiện tượng trong vũ trụ bằng những định luật chung, từ thế giới cực vi của nguyên tử cho đến không gian mênh mông vô tận của các thiên hà. Einstein luôn tin vào sự hòa điệu vĩnh hằng của vũ trụ và tin rằng Lý thuyết Trường thống nhất sẽ là chìa khóa mở ra các cánh cửa huyền vi của Tạo hóa. Nhà vật lý lý thuyết Michio Katu của đại học City tại New York cho rằng Lý thuyết Trường thống nhất là nỗ lực đi tìm “một phương trình chỉ dài một inch mà cho phép chúng ta đọc được tâm ý của Thượng Đế” (an equation an inch long that would allow us to read the mind of God)! Xét cho cùng thì cái “the mind of God” của Michio Katu cũng chính là cái mà nhà thơ Lý Hạ của Trung Quốc gọi là “Nguyên hóa tâm” 元 化 心 (tấm lòng của Tạo hóa) trong một bài Tương tiến tửu:


Chung ẩm Bắc hải


Kỳ cứ Nam san


Ca dâm dâm


Quản tích tích


Hoành ba hảo tống điêu đề câm (kim)


Nhân chi đắc ý thả như thử


Hà dụng cưỡng tri nguyên hóa tâm?


Rượu uống chốn Bắc hải


Cờ đánh ở Nam san


Ca đê mê


Sáo réo rắt


Liếc mắt nhìn đưa chén rượu vàng


Đời nguời đắc ý cứ như thế


Ích gì gượng hiểu lòng Hóa công?

Tâm hồn nghệ sĩ phương Đông muốn tìm thấy “Nguyên hóa tâm” trong thơ và rượu, còn những đầu óc thông thái phương Tây lại luôn chứng minh “Nguyên hóa tâm” bằng những phương trình! Dường như con đường khoa học phương Tây khi mở rộng ra thế giới ngoại tại đến khi tới chỗ sơn cùng thủy tận thì nó lại tiếp giáp với cõi bờ huyền học phương Đông. Thực tướng của thế giới chỉ hiển lộ đối với những tâm hồn nghệ sĩ thực sự, những tâm hồn không còn bị che mờ bởi danh lợi hoặc những thứ phù phiếm của trần gian, mà để rung cảm theo sự hòa điệu vĩ đại của vũ trụ. Tác giả của những kháng thư đại thừa thâm áo, khi dùng trí tưởng tượng phong phú dị thường để diễn tả cảnh giới chứng ngộ hoặc thực tướng của vũ trụ, trước hết họ là những nhà thơ lớn hoặc là những tâm hồn có những rung động cực kỳ vi tế trước những cảnh tượng kỳ diệu mà họ đã trực ngộ. Bởi vậy, những câu nói sau đây của Einstein chắc hẳn có một ý nghĩa thật sâu xa đối với những ai quan tâm đến Phật học:


- Nếu có một thứ gì đó trong tôi có thể gọi là tôn giáo thì đó chỉ là sự thán phục vô bờ bến trước cấu trúc của thế giới, trong chừng mực nó được nền khoa học của chúng ta phát lộ mở phơi. (If something is in me which can be called religious then it is the unbounded admiration for the structure of the world so far as our science can reveal it - The Human Side).


- Tôi không cần phải cố gắng hình dung ra một Thượng Đế; đối với tôi chỉ cần chiêm ngưỡng một cách ngất ngây kiến trúc của thế giới là đủ, trong mức độ nó cho phép giác quan bất toàn chúng ta thưởng ngoạn (I don’t try to imagine a God; it suffices to stand in awe of the structure of the world, insofar as it allows our inadequate senses to appreciate it - Letter to S. Flesch, April 16, 1954; Einstein Archive 30-1154).


- Điều đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể kinh nghiệm được là sự huyền mật. Đó là suối nguồn của mọi nghệ thuật và khoa học chân chính. Người nào xa lạ với cảm xúc này, người nào không còn biết ngạc nhiên và ngất ngây trong niềm kinh ngạc thì xem như đã chết: đôi mắt anh ta đã bị khép kín mất rồi”. (The most beautiful thing we can experience is the mysterious. It is the source of all true art and science. He to whom this emotion is a stranger, who can no longer pause to wonder and stand rapt in awe, is as good as dead: his eyes are closed).


Cái mà nhà bác học Einstein gọi là “cảm nhận được sự huyền mật”, thì đó chính là cái mà Phật giáo gọi là “Diệu quán sát trí” (trí quán sát huyền diệu). Theo Duy thức học, thức thứ sáu tức Ý thức, khi đạt đến quả vô lậu, sẽ chuyển thành “Diệu quán sát trí”: đó là trí nhìn ra những điều kỳ diệu và huyền mật trên thế gian ngay trong những sự vật và sự việc bình dị đời thường, để biết “ngất ngây trong niềm kinh ngạc” (to stand rapt in awe). Nó không chỉ là suối nguồn của mọi khoa học và nghệ thuật, mà của cả tôn giáo nữa. Thế giới tưởng chừng tầm thường quanh ta vẫn luôn có vô số những điều huyền mật, để chờ một con mắt biết nhìn. Đó chính là chỗ mà Thiền tông gọi là “Bình thường tâm thị đạo”. Chỉ những ai đã mở được Diệu quán sát trí mới có đủ thẩm quyền để nói: “Bình thường tâm thị đạo”. Khi cái tâm đã tĩnh thì Diệu quán sát trí sẽ quán thấy toàn bộ bản lai diện mục của thế giới ngoại trần hiện lên trên tấm gương lòng. Đó là cái nhìn về “trăm năm trong cõi người ta” với “Tứ thời tâm kính tự như như” của Tố Như!


Ngữ lục Thiền tông chép lại các giai thoại các Thiền sư khi đang gánh nước hay chẻ củi, hoặc nhìn một bông hoa đào nở mà bỗng hoát nhiên đại ngộ. Hẳn ngay trong một sát-na, các ngài bỗng thấy vỡ òa trước mắt mình một thế giới tràn ngập ánh sáng của “Thập phương thế giới hiện toàn chân”, như thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm đã từng thấy khi “Bách trượng can đầu tu tiến bộ”. Bởi vậy, các ngài mới có thể ứng khẩu làm ngay những bài kệ trong trạng thái hoan lạc tâm linh khôn tả. Tôi tin rằng Đức Phật cũng đã từng ngồi im lặng dưới gốc Bồ-đề để chiêm ngưỡng một cách ngất ngây kiến trúc của thập phương thế giới, đã từng “to stand in awe of the structure of the world” bằng trực giác phi thường, trước khi đạt đến sự Toàn Giác để nhập Hải Ấn đại định, hiện Đại Nhật Pháp thân (Vairocana: Tỳ-lô-xá na) mà thuyết pháp về thế giới Hoa Nghiêm.


Tư tưởng của triết gia Heidegger có vài điểm rất gần gũi với đạo Phật khi ông cho rằng: “Giữ tâm tịch nhiên bất động trước sự vật và mở rộng tâm hồn ra với những điều huyền mật, hai điều đó phụ thuộc lẫn nhau. Chúng đem lại cho chúng ta khả năng an trú trong thế giới theo một thể cách hoàn toàn khác biệt” (Die Gelassenheit zu den Dingen und die Offenheit für das Geheimnis gehören zusammen. Sie gewähren uns die Möglichkeit, uns auf eine ganz andere Weise in der Welt aufzuhalten). “Giữ tâm tịch nhiên bất động trước sự vật” (die Gelassenheit zu den Dingen hay l’égalité d’âme devant les choses) tức là tinh thần “Nhậm vận” của Thiền tông trong giai đoạn thứ bảy của “Thập mục ngưu đồ”, còn “Mở rộng tâm hồn ra với những điều huyền mật” (die Offenheit für das Geheimnis hay l’ouverture au mystère) chính là Diệu quán sát trí của Phật môn.


Thi hào Nguyễn Du biểu hiện Diệu quán sát trí theo một cách khác đầy thi vị và nghệ thuật. Chúng ta thường trích các câu thơ chữ Hán của Nguyễn Du để minh họa ảnh hưởng của Phật giáo trong thơ ông. Nhưng phần ảnh hưởng thâm sâu của Phật giáo lại nằm trong một đôi câu thơ phơ phất của Truyện Kiều. Nguyễn Du hẳn đã quán sát được thế gian hằng như mộng, nhất thiết pháp đều như huyễn, cho nên ngay sau cảnh tượng long lanh huyền ảo của ngoại giới:
Long lanh đáy nước in trời,


Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng


Ông đã chỉ ra cảnh thê lương của kiếp người:


Bước vào chốn cũ lầu thư


Tro than một đống, nắng mưa bốn tường


Đó là Diệu quán sát trí qua cách diễn đạt bằng nghệ thuật của một thiên tài. Cái mà Mộng Liên đường chủ nhân bảo Nguyễn Du là nhà thơ có“đôi mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” chính là Diệu quán sát trí của một Nghệ Sĩ - Bồ-tát đã thấy được “Mãn cảnh giai không hà hữu tướng? Thử tâm thường định bất ly thiền”.


Nhà thơ thiên tài Walt Whitman cũng đạt đến Diệu quán sát trí khi viết về những điều xảy ra quanh mình và gọi đó là “điều kỳ diệu” (Miracles). Dù là lang thang trên đường phố Manhattan, đi dạo dọc theo bờ biển, hoặc đứng dưới tàng cây, ngắm nhìn người ta qua lại, ngồi vào bàn ăn với mẹ, nói chuyện với bạn bè, nhìn những đàn ong bay lượn trong một buổi chiều hay nhìn đàn gia súc đang gặm cỏ ngoài đồng, nhìn những đứa trẻ chơi đùa hoặc nhìn thấy đám tang… ông đều thấy đó là những phép lạ diệu kỳ, trong bài thơ Miracles.


Đối với tôi, mỗi giờ của ngày và đêm đều là phép lạ


Từng phân khối không gian đều là phép lạ


……


Tất cả những điều đó, đối với tôi, đều là những phép lạ tuyệt diệu làm ta ngất ngây không sao nói được nên lời.


Đối với tôi biển khơi là phép mầu vô tận


Những đàn cá bơi - những tảng đá - sóng vỗ nhấp nhô - những con tàu với bao người trên đó


Có phép màu nào kỳ diệu hơn thế nữa chăng?


Đó chính là tinh thần Diệu quán sát trí của đạo Phật trong tâm hồn của một Bồ tát-Thi sĩ phương Tây. Trong tâm đã có sở đắc thì ngôn ngữ tự nhiên trở nên du hí phiêu bồng, khi đạt được Diệu quán sát trí thì thế giới sẽ trở nên toàn bích trong sự hòa điệu bất khả tư nghì của cảnh giới Hoa Nghiêm. Lúc đó, nói theo ngôn ngữ các thiền sư, thì núi Tu Di có thể được nhét trong một hạt cải, thập phương thế giới có thể hiển lộ trên đầu một sợi chân lông. Giống như một người đã giác ngộ thì nói năng động tĩnh đều phát huy diệu dụng, đi đứng nằm ngồi đều biểu lộ huyền cơ. Lúc đó câu kinh Duy-ma-cật: “Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh” sẽ vọng lên những hòa thanh tương ứng với câu thơ của Whitman:


Tôi đoan chắc rằng trần gian này sẽ toàn bích đối với những ai có tâm hồn toàn bích.


Và nó chỉ đổ nát vỡ vụn đối với những ai có tâm hồn đổ nát vỡ vụn.

(TVHS)