“Xem Tử-Vi thì phải biết Sinh Khắc Chế Hóa, và phải là người thâm nho mới thấu triệt ý nghĩa”. Ngày tôi còn bé thường nghe các cụ nói thế. Nghe vậy thì biết vậy, chứ thực ra tôi chẳng hiểu mấy về câu nói này.

Khi vừa biết viết dành chữ quốc ngữ, tôi liền được cụ tôi hướng dẫn lập thành lá số Tử-Vi cho những người đến nhờ cụ xem dùm. Lúc ấy, tôi sung sướng nghĩ rằng lấy một lá số Tử-Vi là việc làm không mấy khó khăn.

Tôi thầm nghĩ rằng, có lẽ ngày xưa cần người thâm nho chỉ để đọc các sách chữ Hán dạy về cách lập thành, và cách đoán số Tử-Vi. Nếu nay, cứ tìm được các bộ sách chân truyền từ xưa, rồi dịch ra Việt Ngữ thì Tử-Vi không còn gì là bí hiểm, không còn là độc quyền của các cụ già thâm nho. Chỉ việc giở sách ra là có thể lập thành một lá số Tử-Vi, rồi quy nạp, dựa vào các bộ sao, suy đóan các cách phú quý, bần tiện, thọ yểu, hạn rủi, vận may v.v.v…

Thời gian trôi qua, càng nghiên cứu Tử-Vi, tôi càng thấy rằng đó không phải là một việc làm giản dị như trước kia tôi lầm tưởng.

Ngòai việc phân định sự Miếu, Vượng, Hãm địa của các sao, sự Sinh Khắc Ngũ Hành; phối hợp Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái và việc quy nạp độ 500, 700 cách đóan số (cho nhiều nhất là 1000 cách trong các bài phú) lại còn phải hiểu hình tính, ý nghĩa các vị sao mà chế hóa. Vì có những sao gặp nhau mà không thuộc về cách nào ghi trong các sách Tử-Vi. Thí du như Hỏa Tinh cư Ngọ đắc địa gặp Kình Dương cư Ngọ hãm địa thì sao ? Thái Dương cư Tuất hãm địa gặp Kình Dương cư Tuất Nhập Miếu thì sao ? Không thể áp dụng tinh thần máy móc, cộng hai vị sao lại rồi chia hai, lấy trung bình. Tốt vừa vừa hay là xấu in ít. Trong những trường hợp này thị sự chế hóa tinh thần diễn dịch đóng một vai trò rất quan trọng.

Nếu chỉ áp dụng tinh thần công thức một cách máy móc, thì sẽ gặp rất nhiều công thức này chống ngược lại công thức khác.

Sách ghi là :”Tử-Phá mộ cung, bất trung, bất hiếu”. Sách lại cũng nói là :”Khôi Việt, Quan Phúc” chủ thông minh, thanh cao, nhân hậu …. Vậy thì Tử-Phá cư Mùi gặp Khôi Việt, Quan Phúc là thế nào ? Bất trung, bất hiếu vừa vừa, hay là thanh cao, nhân hậu in ít ?...

Một vị chính tinh dù là hung ác mà được quần thần, cố vấn, tham mưu đều thanh cao, nhân hậu, thì có thể trở thành nhà cải cách, cách mạng tận tụy hành động có hơi cứng rắn, đi khác với thông lệ, vượt qua dư luận. Nhưng vị chính tinh ấy được bộ tham mưu đưa về những chiều hướng xây dựng.

Nói đến ”Liêm Tham Tị-Hợi” thì người nghiên cứu Tử-Vi, có thể nghĩ đến công thức Liêm Trinh cộng với Tham Lang ở Tị, Hợi ra quan môn , hình ngục. Thế nhưng Liêm-Tham Tị Hợi cư cung Quan Lộc ở đó. Mệnh, Quan, Tài, Di được các quyền tinh, quý tinh, phúc tinh giao hội đủ bộ, thì ảnh hưởng sẽ chuyển ngược lại, không phải là người ta xử phạt mình, mà lại là mình xử phạt, cầm cân nảy mực xét xử người khác (Đây là Lá số của một ông Thẩm phán trong thân quyến của tôi, để quý vị chiêm nghiệm. Tuổi Đinh Sửu, tháng Chạp, ngày 28, cuối giờ Tý - Lá số)

Không thể căn cứ một bộ sao tốt rồi đóan rằng mọi sự phải tốt, không thể căn cứ vào một bộ sao xấu rồi đóan rằng việc gì cũng phải xấu. Cũng không thể quan niệm rằng lấy cái tốt, cộng với cái xấu, hòa lẫn, chia 2, ra cái trung bình.

Sinh Khắc, Chế Hóa là lời nhắc nhở từ căn bản vỡ lòng của những người nghiên cứu Tử-Vi thời trước. Ngày nay, vì đã Việt Ngữ hóa đến tận cùng Khoa Tử-vi, mà các sách Tử-Vi chỉ trình bày được phần Sinh Khắc Ngũ Hành, và bỏ lơ đi cái phần Chế hóa, chỉ trình bày các công thức dưới những hình thức có vẻ khoa học. Đến khi áp dụng công thức thì người nghiên cứu vô cùng hoang mang trước những công thức này chống công thức kia.

“ Mệnh Đào mà ngộ Thiên Diêu
Chồng ra khỏi cửa, dắt tay trai vào”

Phú đóan chỉ nói lên một khía cạnh có thể có, chứ không phải là một công thức máy móc.

Mệnh tại Mão được Thái Dương, Thiên Lương, Quan, Phúc. Nữ Mệnh được cách như vậy thì sách lại nói đến không biết bao nhiêu đức tính tốt như là thanh cao, phúc hậu, thủy chung, nhân từ …. Nhưng lại có thêm Đào Hoa, Thiên Diêu ở đấy thì công thức lại nói là ngọai tình. Vậy thì là thế nào ? Thủy chung nửa vời hay là ngọai tình in ít ?

Chính tinh đã thủy chung lại được củng cố thêm bởi các phúc tinh, qúy tinh thì một vài sao Đào, Diêu không thể tạo ảnh hưởng ngược lại được. Đó chỉ là dấu hiệu của một vài mối tình do người ngòai đem đến ngỏ ý ..v.v.v… nhưng đương số vẫn vững lòng trung thành.

Mục đích của bài này không phải thảo luận hoặc trình bày hay tất cả những trường hợp Chế Hóa. Chúng tôi chỉ muốn trình bày rằng, nếu hoàn tòan Việt Ngữ hóa Tử-Vi, nếu vứt bỏ đi hai chữ Chế Hóa thì Tử-Vi chỉ còn là một mớ công thức lộn xộn.

* Sinh Khắc, Chế Hóa, bốn chữ “đầu môi chót lưỡi” thường được giới Tử-Vi Dịch Lý xưa kia nhắc nhở. Thiết tưởng, cũng không nên vì một lý do gì mà bỏ đi chữ Chế Hóa, hoặc thay thế bằng một chữ nào khác mà mất đi cái thâm thúy của cổ nhân, và người hậu học có thể bị đi lạc đường.

Muốn Chế Hóa thì phải suy diễn. Mà muốn suy diễn theo Tử-Vi, thì phải trở về với quan niệm Sinh Khắc, Ngũ Hành, Âm Dương, Bát Quát về vũ trụ, về nhân sinh của người xưa. Gần hơn hết là phải hiểu ý nghĩa các vị sao.

Tên các vị sao không phải đặt theo hứng khởi, ngẫu nhiên. Có thể nói là tên mỗi vị sao kéo theo cả một vũ trụ quan, một nhân sinh quan. Tên mỗi vị sao lại có nhiều nghĩa khác nhau , liên hệ đến cách phát âm đó. Thí dụ như Thiên Việt là văn tinh, quy tinh, thế mà :

“Hỏa Linh Hình Việt” lại là kiếm đao búa Trời, ngụ ý sét đánh, thì chữ Việt đây còn có nghĩa là cái gì rơi đổ xuống, chữ Việt (với bộ Kim bên cạnh) lại có nghĩa là cái búa lớn.

Như chữ Mộ là cái mồ, ngụ ý chôn vùi, lấp, bế tắc, trở ngại. Thế mà :

Mộ phùng Hóa Lộc mấy ai !
Thực người có của tận tay chào mời.
Thì chữ Mộ này lại là mến. Lại như sao Thiên Y là thuốc men mà lại cũng là biểu tượng của y là áo (ngụ ý chức tước y lộc)

Như sao Hóa Quyền ngụ ý về quyền uy, mà lại là biểu tượng của gò má (lưỡng quyền) lại có khi là quyền biến, thay đổi.

Lưỡng Hao, Cự, Vũ, Hóa Quyền
Chiếu sai trấn thủ một bên phương ngòai

Cự là cách xa. Vũ viết như chữ Vũ là Võ, lại còn có nghĩa vết chân, nối gót, như bộ Vũ là làm nốt công việc của người trước.

Đó là một vài khía cạnh Chiết Tự trong Tử-Vi, mà xưa kia các cụ thường áp dụng để có một vài cái nhìn sâu xa hơn. Có Cự Môn hoặc là có Vũ Khúc cũng có thể đi xa, được đi theo sự tự chọn hoặc là là bị đổi đi, tùy theo ý nghĩa các sao kết hợp thành bộ. Chứ nào phải riêng một Lưu Thiên Mã gặp Thiên Mã cố định mới là đi. Đâu phải chỉ có con ngựa mới chủ sự đi. Rồng (Long) cũng có thể bay lên hoặc bay đi vũng vẫy. Hỗ cũng có thể đi tung hòanh.

Trong Tử Vi có những tên gọi không phải là Sao. Chúng tôi sẽ có một bài khác nói về điểm này sau.

Thiên Mã là Khí Dịch Mã, tạo nên sự biến chuyển. Còn tùy các sao khác mà luận. Có khi chỉ là sự biến chuyển tốt hơn, xấu hơn hoặc thay đổi tại chỗ mà thôi.

Như Linh Tinh, trong trường hợp hợp tốt thì Linh là quyền lệnh (Hỏa Linh tương ngộ, đa trấn chư bang). Khi xấu thì Linh lại là rụng rơi, hoặc cô đơn, cô khổ, (Hỏa Linh hãm ư Tử Tức, đáo lão vô như khốc). Hỏa Tinh, Linh Tinh trong một số trường hợp còn là tinh ma, yêu quái, linh hồn …. Dĩ nhiên là còn phải xét thêm các sao khác để mà luận đoán thêm :

Thí dụ như :
Tử cung Thai ngộ Hỏa Linh
Bào Thai những giống yêu quỷ

Hoặc là ở Điền Trạch :
Hồng, Diêu, Hoa Cái tốt sao;
Khốc Hư, Linh Hỏa, có yêu quái gì..

Lại còn cách :”Tuế Kỵ Diêu Linh Khốc” là có oan hồn theo khuấy phá, nếu được chính tinh tốt, phúc tinh phù trợ thì thì cũng có khi là mình được một vong linh nào đó theo phù hộ.

Trên đây không phải là những công thức Tóan Học Tử-Vi, mà chỉ là những tinh lực, những khí vận, có thể biến chuyển như vậy. Người nghiên cứu không thể câu chấp, mà cần có cái nhìn rộng thêm về ảnh hưởng tương quan của các vị sao khác, mà rộng đường Chế Hóa.

Việc Chế Hóa và Chiết Tự trong Tử-Vi thật là man mác. Một bài báo hoặc một quyển sách cũng không sao trình bày hết. Có khoa học nào gom lại trong một hai cuốn sách mà được đầy đủ ?

Chúng tôi chỉ xin trình bày để quý bạn mới làm quen với Tử-Vi có một quan niệm rõ rệt về công dụng của Khoa này, cùng lá số có thêm một khái niệm về sự chế hóa, chiết tự.

Mỗi khoa học đều phát xuất từ một nhân sinh quan, một vũ trụ quan. Khi nghiên cứu Tử-Vi, chúng ta cần trở lại với cái nhân sinh quan vào thời phát sinh ra Tử-Vi. Chúng ta cần hiểu cái quan niệm của thời đó mà Chiết Tự, Chế Hóa.

Không thể nào đem cái nhân sinh quan này, áp dụng vào Khoa học nọ. Cũng như không thể cầm một chai thuốc Tây, và nói rằng thuốc này trị về Hỏa vượng. Khi Chiết Tự, khi Chế Hóa thì cần theo cái nhãn sinh quan của thời đại phát sinh ra Tử-Vi.

Ví dụ : Sao Bác Sĩ, nghĩa đen là kẻ sĩ, học rộng, ngụ ý là thông minh và được trọng vọng. Thời xưa chữ Sĩ, kẻ Sĩ được trọng vọng nhiều. Chứ nào có phải là nói về tâm hồn nghệ sĩ, hay là ông Bác Sĩ. Do đó, không thể nào luận rằng các sao Thiên Y, Hóa Khoa, Bác Sĩ họp lại thành ra bộ sao “Y Khoa Bác Sỹ”. Và cũng không thể áp dụng công thức sao Tuế Phá đi với Kình Dương là răng vẩu, răng hô, lại thấy nếu có Thiên Y, Hóa Khoa rồi luận ra đó là vị Nha sĩ chuyên chữa răng vẩu, răng hô !....

(Phước Duyên)