+ Trả lời Chủ đề
Trang 1 của 2 1 2 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 16

Chủ đề: Phật giáo Hòa Hảo

  1. #1
    kimthao77
    Guest

    Thumbs down Phật giáo Hòa Hảo

    Đạo Hòa Hảo, hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, trong thư viện của hơn 30 quốc gia trên thế giới vẫn còn giữ những tài liệu sách báo về đạo này.

    Ra đời



    Huỳnh Phú Sổ

    Đạo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ sáng lập.

    Huỳnh Phú Sổ, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920 (tức 25/11 Kỷ Mùi), là con của Huỳnh Công Bộ. Thuở nhỏ, ông được cha cho học hết bậc sơ Pháp-Việt tại một trường ở huyện. Ông có tiếng thông minh, có năng khiếu thơ văn, nhưng vì luôn đau ốm nên không thể tiếp tục học lên bậc cao hơn. Sau đó, ông đi lên núi Cấm tìm thầy chữa bệnh và tại đây ông đã tu theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật thầy Đoàn Minh Huyên (1807-1856) sáng lập.

    Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là bậc "sinh như tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca Mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để "Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và đưa tới chốn Tây phương cực lạc". Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc đã học trong lúc đi chữa bệnh, đồng thời qua đó ông truyền dạy giáo lý bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng.

    Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú sổ bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó, ông được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ mối đạo, và gọi ông bằng cái tên tôn kính là Huỳnh Giáo Chủ.

    Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca, sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng thi văn giáo lý, có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.

    Thời kỳ Nhật xâm chiếm


    Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

    Sang năm 1941, đạo Hòa Hảo tiếp tục gia tăng số lượng tín đồ của mình một cách nhanh chóng. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp lo ngại Nhật tranh thủ giáo phái Hòa Hảo nên đã câu thúc Huỳnh Phú Sổ ở Châu Đốc, Bạc Liêu, Cần Thơ. Năm 1942, Nhật vận động được giáo chủ Hòa Hảo về Sài Gòn. Tại đây ông đã vận động được nhiều nhân vật hoạt động chính trị thân Nhật vào đạo Hòa Hảo để gây thanh thế, đồng thời thời gian này nhiều thanh niên theo đạo Hòa Hảo cũng tham gia các tổ chức của Nhật.

    Năm 1946, Huỳnh Phú Sổ cùng với những người lãnh đạo Hòa Hảo thành lập tổ chức Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng gọi tắt là "Đảng Dân xã" vào Tháng Chính năm 1946 bao gồm lực lượng nòng cốt trong Hòa Hảo và tổ chức Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng. Đảng Dân xã có điều lệ và chương trình hành động, cơ cấu tổ chức riêng, có vai trò như một tổ chức chính trị. Từ đó Hòa Hảo vừa có đạo vừa có đảng mang hình thức gần với một tổ chức chính trị. Khối Hòa Hảo còn tổ chức lại lực lượng vũ trang vào Tháng Sáu năm 1946 mang tên "Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực".[1]

    1947-1963 lực lượng võ trang


    Năm 1947, Huỳnh Phú Sổ vắng mặt trong khi trên đường đi hòa giải giữa Việt Minh và Hòa Hảo; theo các tài liệu Tây phương và Việt Nam Cộng hòa thì ông bị Việt Minh thủ tiêu. Sau đó nội bộ Hòa Hảo tách ra làm mấy nhóm; có nhóm ngả theo Việt Minh, nhóm thì chống lại, gây ra những vụ thanh toán và tranh giành ảnh hưởng có khi đẫm máu. Mỗi nhóm cát cứ ở những vùng như Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.

    Chính phủ Đệ nhất Cộng hòa sau khi thành lập năm 1955 thì mở những cuộc hành quân như "Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng" rồi "Chiến dịch Nguyễn Huệ" để bình định các giáo phái hầu thống nhất quân lực. Các lãnh tụ Hòa Hảo như tướng Trần Văn Soái (biệt danh Năm Lửa) rút về cố thủ Đồng Tháp; tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) thì đem quân về chống giữ ở Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá. Bị truy nã Trần Văn Soái ra hàng còn Lê Quang Vinh thì bị bắt, sau đem xử tử.[2]

    1963-1975


    Năm 1964 đạo Hòa Hảo có sự củng cố lại về tổ chức, xây dựng mở mang các cơ sở tôn giáo, văn hóa, xã hội. Hệ thống Ban trị sự được kiện toàn từ trung ương đến cơ sở (hình thành cơ cấu tổ chức 4 cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã). Đảng Dân xã cũng được củng cố để hỗ trợ cho đạo, đồng thời cơ quan lãnh đạo Hòa Hảo có sự phân đôi thành 2 ban trị sự trung ương: phái cũ do Lương Trọng Tường, phái mới do Huỳnh Văn Nhiệm đứng đầu.

    Năm 1972 Lê Quang Liêm tách ra khỏi phái cũ của Lương Trọng Tường thành lập ban trị sự trung ương mới. Lúc này đạo Hòa Hảo có tới 3 ban trị sự trung ương cùng tồn tại cho đến thống nhất đất nước. Dù phân hóa, Phật giáo Hòa Hảo tiếp tục phát triển vào thời Đệ nhị Cộng hòa trong đó một sự kiện lớn là việc thành lập Viện Đại học Hòa Hảo năm 1972 ở Long Xuyên. Khi chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ thì các nhóm Hòa Hảo điều hành tổng cộng sáu trường trung học phổ thông, một viện đại học và hai bệnh viện. Tất cả những cơ sở này bị chính quyền mới tịch thu.[3]

    Đến nay, Hòa Hảo vẫn phát triển chú yếu trong vùng tứ giác Long Xuyên. Số lượng tín đồ khoảng 2 triệu người.

    (Theo wikipedia)

  2. #2
    aiquocv
    Guest
    Đạo Hòa Hảo, hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, trong thư viện của hơn 30 quốc gia trên thế giới vẫn còn giữ những tài liệu sách báo về đạo này.

    Lịch sử ra đời

    Đạo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ sáng lập.
    Huỳnh Phú Sổ, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920 (tức 25/11 Kỷ Mùi), là con của Huỳnh Công Bộ. Thuở nhỏ, ông được cha cho học hết bậc sơ Pháp-Việt tại một trường ở huyện. Ông có tiếng thông minh, có năng khiếu thơ văn, nhưng vì luôn đau ốm nên không thể tiếp tục học lên bậc cao hơn. Sau đó, ông đi lên núi Cấm tìm thầy chữa bệnh và tại đây ông đã tu theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật thầy Đoàn Minh Huyên (1807-1856) sáng lập.
    Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là bậc "sinh như tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca Mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để "Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và đưa tới chốn Tây phương cực lạc". Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc đã học trong lúc đi chữa bệnh, đồng thời qua đó ông truyền dạy giáo lý bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng.

    Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú sổ bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó, ông được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ mối đạo, và gọi ông bằng cái tên tôn kính là Huỳnh Giáo Chủ.

    Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca, sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng thi văn giáo lý, có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.


    Thời kỳ Nhật xâm chiếm


    Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

    Sang năm 1941, đạo Hòa Hảo tiếp tục gia tăng số lượng tín đồ của mình một cách nhanh chóng. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp lo ngại Nhật tranh thủ giáo phái Hòa Hảo nên đã câu thúc Huỳnh Phú Sổ ở Châu Đốc, Bạc Liêu, Cần Thơ. Năm 1942, Nhật vận động được giáo chủ Hòa Hảo về Sài Gòn. Tại đây ông đã vận động được nhiều nhân vật hoạt động chính trị thân Nhật vào đạo Hòa Hảo để gây thanh thế, đồng thời thời gian này nhiều thanh niên theo đạo Hòa Hảo cũng tham gia các tổ chức của Nhật.
    Năm 1946, Huỳnh Phú Sổ cùng với những người lãnh đạo Hòa Hảo thành lập tổ chức Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng gọi tắt là "Đảng Dân xã" vào Tháng Chính năm 1946 bao gồm lực lượng nòng cốt trong Hòa Hảo và tổ chức Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng. Đảng Dân xã có điều lệ và chương trình hành động, cơ cấu tổ chức riêng, có vai trò như một tổ chức chính trị. Từ đó Hòa Hảo vừa có đạo vừa có đảng mang hình thức gần với một tổ chức chính trị. Khối Hòa Hảo còn tổ chức lại lực lượng vũ trang vào Tháng Sáu năm 1946 mang tên "Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực".[1]

    1947-1963 lực lượng võ trang

    Năm 1947, Huỳnh Phú Sổ vắng mặt trong khi trên đường đi hòa giải giữa Việt Minh và Hòa Hảo; theo các tài liệu Tây phương và Việt Nam Cộng hòa thì ông bị Việt Minh thủ tiêu. Sau đó nội bộ Hòa Hảo tách ra làm mấy nhóm; có nhóm ngả theo Việt Minh, nhóm thì chống lại, gây ra những vụ thanh toán và tranh giành ảnh hưởng có khi đẫm máu. Mỗi nhóm cát cứ ở những vùng như Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.

    Chính phủ Đệ nhất Cộng hòa sau khi thành lập năm 1955 thì mở những cuộc hành quân như "Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng" rồi "Chiến dịch Nguyễn Huệ" để bình định các giáo phái hầu thống nhất quân lực. Các lãnh tụ Hòa Hảo như tướng Trần Văn Soái (biệt danh Năm Lửa) rút về cố thủ Đồng Tháp; tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) thì đem quân về chống giữ ở Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá. Bị truy nã Trần Văn Soái ra hàng còn Lê Quang Vinh thì bị bắt, sau đem xử tử.[2]

    1963-1975

    Năm 1964 đạo Hòa Hảo có sự củng cố lại về tổ chức, xây dựng mở mang các cơ sở tôn giáo, văn hóa, xã hội. Hệ thống Ban trị sự được kiện toàn từ trung ương đến cơ sở (hình thành cơ cấu tổ chức 4 cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã). Đảng Dân xã cũng được củng cố để hỗ trợ cho đạo, đồng thời cơ quan lãnh đạo Hòa Hảo có sự phân đôi thành 2 ban trị sự trung ương: phái cũ do Lương Trọng Tường, phái mới do Huỳnh Văn Nhiệm đứng đầu.

    Năm 1972 Lê Quang Liêm tách ra khỏi phái cũ của Lương Trọng Tường thành lập ban trị sự trung ương mới. Lúc này đạo Hòa Hảo có tới 3 ban trị sự trung ương cùng tồn tại cho đến thống nhất đất nước. Dù phân hóa, Phật giáo Hòa Hảo tiếp tục phát triển vào thời Đệ nhị Cộng hòa trong đó một sự kiện lớn là việc thành lập Viện Đại học Hòa Hảo năm 1972 ở Long Xuyên. Khi chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ thì các nhóm Hòa Hảo điều hành tổng cộng sáu trường trung học phổ thông, một viện đại học và hai bệnh viện. Tất cả những cơ sở này bị chính quyền mới tịch thu.[3]

    Đến nay, Hòa Hảo vẫn phát triển chú yếu trong vùng tứ giác Long Xuyên. Số lượng tín đồ khoảng 2 triệu người.

  3. #3
    aiquocv
    Guest
    Giáo lý Hòa Hảo được thể hiện trong những bài sấm kệ do Huỳnh Phú Sổ biên soạn, bao gồm 6 tập:

    1/-Sấm khuyên người đi tu niệm
    2/-Kệ của người Khùng
    3/-Sấm giảng
    4/-Giác mê tâm kệ
    5/-Khuyến thiện
    6/-Những điều sơ học cần thiết của kẻ tu hiền


    Có thể nhận thấy giáo lý Hòa Hảo là sự tiếp thu và nâng cao tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương của Đoàn Minh Huyên, gồm phần "Học Phật" và phần "Tu nhân":
    Phần "Học Phật": chủ yếu dựa vào giáo lý đạo Phật song được giản lược nhiều và có thêm bớt đôi chút. Tinh thần chính là khuyên tín đồ ăn ngay ở hiền.

    Phần "Tu nhân": theo giáo lý Hòa Hảo tu nhân có nghĩa là tu "tứ ân hiếu nghĩa"- đó là 4 điều Đoàn Minh Huyên, đã chỉ ra, bao gồm Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào nhân loại, Ân tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).

    Đạo Hòa Hảo khuyên tín đồ vừa học Phật vừa tu nhân để tạo nên công đức. Có công đức để trở thành bậc hiền nhân. Song, họ đặc biệt yêu cầu tín đạo phải tu nhân, cho rằng việc tu hành phải dựa trên đạo đức, trước hết đạo làm người: Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên (Không có tu nhân thì không thể học Phật, hoặc học Phật mà chẳng tu nhân thì cũng vô nghĩa); Dụng tu Tiên đạo, tiên tu Nhân đạo; Nhân đạo bất tu, Tiên tu viễn ký (Muốn tu thành Tiên Phật trước hết phải tu đạo làm người, đạo người mà không tu thì Tiên Phật còn xa vời).

    Nghi lễ và tổ chức

    Đạo Hoà Hảo chủ trương tu tại gia hơn là đi lễ chùa. Họ chủ trương giúp đỡ người nghèo hơn là cúng tiền xây chùa hay tổ chức lễ hội tốn kém. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Họ cho đó là những sự phung phí thay vì dùng tiền đó dể giúp đỡ những người thực sự cần đến.

    Đạo Hòa Hảo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và cả việc đời. Không có nơi thờ công cộng, trung tâm của đạo ở làng Hòa Hảo gọi là tổ đình cũng chỉ mang tính gia tộc. Đạo này không xây dựng chùa chiền, không có tượng ảnh thờ. Vật thờ của đạo Hòa Hảo hiện nay là tấm vải có màu nâu sẫm (trần điều) trên bàn thờ (còn gọi là trang thờ) đặt ở gian chính giữa và xây một bàn thông thiên ở sân trước của nhà. Việc thờ phụng này thể hiện tư tưởng của Phật giáo: "Phật tại tâm, tâm tức Phật". Đạo Hòa Hảo thờ Phật, ông bà tổ tiên và các anh hùng tiên liệt có công với đất nước, không thờ các thần thánh nếu không rõ nguyên nhân.

    Lễ vật khi thờ phúng cũng rất đơn giản chỉ có hoa và nước lạnh (nước mưa, nước lọc tinh khiết). Ban đêm đốt đèn ở bàn thờ trong nhà và bàn thờ thông thiên. Khi thờ tín đồ chỉ đọc sấm giảng do thầy Huỳnh Phú Sổ soạn và niệm lục tự Nam-mô-a-di-đà-Phật với mục đích tĩnh tâm và cầu vãng sanh Tịnh Độ.

    Các ngày lễ tết

    Trong một năm, theo âm lịch đạo Hòa Hảo có các ngày lễ, Tết chính:

    Ngày 1 tháng Giêng: Tết Nguyên Đán
    Ngày Rằm tháng Giêng: Lễ thượng nguyên
    Ngày 8 tháng 4: Lễ Phật đản
    Ngày 18 tháng 5: Lễ khai đạo
    Ngày Rằm tháng 7: Lễ trung nguyên
    Ngày 12 tháng 8: Vía Phật thày Tây An
    Ngày Rằm tháng 10: Lễ hạ nguyên
    Ngày Rằm tháng 11: Lễ Phật A-di-đà
    Ngày 25 tháng 11: Lễ sinh nhật giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
    Ngày 8 tháng Chạp: Lễ Phật thành đạo


    Nguồn http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%...2a_H%E1%BA%A3o

  4. #4
    Administrator
    Ngày tham gia
    Mar 2019
    Bài viết
    27

    Tinh hoa trong phật giáo hòa hảo

    -ĐẶC TÍNH THỨ NHẤT : Bửu Sơn Kỳ Hương hay Phật Giáo Hòa Hảo đều là một nền đạo Phật của nông dân.

    Trên phương diện nhân sinh và xã hội, người ta cũng nhận định rằng bản chất thuần phác của người nông dân cho họ có căn bản thuận lợi để tu học theo đạo Phật.

    -ĐẶC TÍNH THỨ HAI, Phật Giáo Hòa Hảo cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương đều chủ trương tu hành tại gia. Bởi vì đạo Phật không những chỉ truyền bá ở thiền môn mà còn phải phát triển rộng rãi đến mọi gia đình.

    Do đó các tín đồ PGHH không bị bắt buộc phải cạo đầu vào chùa, lìa bỏ mọi việc ngoài thế gian, mà họ vẫn ở tại gia đình, sống như mọi người công dân khác với nếp sống bình dị trong nông nghiệp, đồng thời tu hành theo giáo lý của Đức Thích Ca.

    Tôn chỉ tu hành của Phật Giáo Hòa Hảo là Học Phật Tu Nhân, tức là noi theo giáo lý chơn truyền của Đức Phật mà tu sửa con người, để vừa làm tròn bổn phận trong cõi đời đang sống, vừa dọn thân tâm cho trong sáng để được siêu thăng vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc, giải thoát khỏi vòng luân hồi.

    Để thi hành tôn chỉ Học Phật Tu Nhân, người tín đồ PGHH phải tích cực thực hiện Tứ Ân, tức 4 điều ân lớn, là:

    1-Ân Tổ Tiên Cha Mẹ
    2-Ân Đất Nước
    3-Ân Tam Bảo
    (Phật, Pháp, Tăng)
    4-Ân Đồng Bào Nhơn Loại (Xin xem sách về Giáo Lý PGHH) Cũng trong đường lối đó, người tín đồ PGHH đã tỏ ra tích cực tu hành đồng thời cũng tích cực hy sinh vì đất nước, khi quốc gia hữu sự.

    -ĐẶC TÍNH THỨ BA là sự canh tân phương pháp hành đạo nhằm loại trừ mọi hình thức rườm rà, mê tín, dị đoan. Đặc tính canh tân này có mục đích loại bỏ âm thinh sắc tướng để phát dương phần tinh túy của đạo Phật, đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Phật.

    Đạo Phật Giáo Hòa Hảo chủ trương canh tân như sau:

    -Không cất chùa đúc tượng thêm, ngoài những ngôi chùa đã sẵn có. Ai giàu lòng từ thiện thì nên phát tâm bố thí, cứu trợ kẻ nghèo khổ, hơn là cất chùa lớn, đúc tượng cao.

    -Không chấp nhận thầy cúng, thầy lễ, thầy bói, thầy phù thủy, cũng không dâng cúng chè xôi thực phẩm cho Phật, vì Phật không dùng những của hối lộ đó.

    -Không dùng cờ phướn, lầu kho, đốt giấy tiền vàng bạc, phí tổn vô ích....

    -Không khóc lóc hay làm linh đình lúc tang ma, mà chỉ im lặng cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu thoát.

    Không ép hôn, thách tiền cưới hay tiệc rượu linh đình, vì sẽ mang nợ, gây hại về sau. Tóm lại, giáo pháp vô vi Phật Giáo Hòa Hảo nhằm canh tân phương pháp hành đạo để trở về với giáo lý chơn truyền của Đức Phật, là tu hành tại Tâm, chẳng phải ở hình thức lễ nghi bề ngoài.

    Phật Giáo Hòa Hảo không có sư sãi.

    Tóm lại, Phật Giáo Hòa Hảo dạy Tu Nhân Học Phật.

    Tu Nhân là tu đạo Làm Người đối với gia đình, quốc gia, xã hội, là tu đức Nhân của Khổng Mạnh, nhất là Hiếu Nghĩa. Tứ ân hiếu nghĩa nằm gọn trong 2 chữ Tu Nhân.

    “Phàm là con dân, thì biết yêu tổ quốc, hy sinh thân mạng đền bù nợ quốc gia; làm con thì hiếu thảo, thờ phượng cha mẹ, anh em thì hòa thuận nhau, vợ chồng thì ân nghĩa đối đãi nhau, Nói tóm lại, một người có đạo nhân, là người lấy nhân nghĩa, đạo đức làm phương châm xử thế tiếp vật, sống một đời chánh chân cao nhã”. Đó là bước đầu của nấc thang tiến lên con đường đi đến quả vị Tiên Phật. Ai muốn giải thoát, muốn thành Phật, thành Tiên cũng phải trải qua nấc thang đó trước; ví bằng chẳng hành xong Nhân Đạo thì không sao thành Phật Đạo .(Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 67)

    Học Phật là học tinh hoa Phật Giáo. Hòa Hảo chú trọng: Mật, Tịnh, và Thiền.

    Mật là Mật Tông. Mật tông cốt là dọn lấy miếng đất “lòng tin”, để rồi gieo giống Bồ Đề chánh pháp. Mật tông, hay phép nhiệm chữa trị bệnh cho những người kém tin tưởng sớm thức tỉnh , cảm lấy ơn cứu độ mà qui ngưỡng tu hành.

    HỎI: “Bạch thầy, mấy Ông Đạo trên núi, thường luyện phép để ngày sau phò vua, giúp nước. Còn Đức Thày sao không dạy đệ tử luyện phép như Tiên Đạo?”

    ĐÁP: “Đức Phật chỉ dạy con người lo tu tâm sửa tánh, cho được trọn lành trọn sáng, còn phù phép thuộc về tà giáo. Còn ham phù phép tức là còn nuôi óc cạnh tranh cầu danh lợi: phép linh cũng như cá linh. Nước vừa chớm giựt, loại cá này đua nhãy lên nước trước, nên phải chịu chết sớm. Các ông đừng ham linh mà bỏ mình.” (Vương Kim, Đức Huỳnh Giáo Chủ, VP Phật Giáo Hòa Hảo/HN, 1997, tr. 74)

    Tịnh là Tịnh Độ. Thiền Tịnh song tu. Tịnh Độ là niệm danh hiệu A Di Đà, cầu vãng sanh Cực Lạc. Tịnh Độ Tông dựa vào Tha Lực của Đức Phật A Di Đà.

    Thiền là Thiền Tông. Thiền Tông là Pháp Môn tự lực tu hành. Chủ yếu của pháp Thiền Tông, là đạt đến chỗ Minh Tâm Kiến Tính. Mỗi chúng sinh đều có sẵn Bản Tâm thanh tịnh, vĩnh viễn trường tồn, bất di bất dịch, nhưng vì thiên chấp sắc tướng, mà lu mờ chân giác; vì thế mà nhận lầm cái không làm có , cái có làm không. Do chỗ mê lầm ấy mà lăn lộn mãi trong tam đồ lục đạo. Chỉ có trở về với Bản Tính Thanh Tịnh, nhận rõ cái lý: sắc tức thị không, không tức thị sắc, thì mới dứt đường sinh tử, phản bản hoàn nguyên... (Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 99, 100).

    “Thì ra Ông Phật cũng chẳng qua từ địa vị chúng sinh, tức là con người bằng xương bằng thịt, tu hành đắc quả... Phật từ chúng sinh ra mà ra. Thế nên, muốn thành Phật, trước phải làm chúng sinh, hay nói một cách khác, trước khi làm Phật, cần phải làm một con người.

    “ Như vậy, con người là khởi điểm của con đường tiến hóa để đi đến Phật. Không có con người thì không thể nào thành Phật. Nhưng Phật khác hơn chúng sinh ở chỗ Phật là con người toàn thiện, toàn mỹ, rốt ráo giải thoát, còn chúng sinh là những con người chưa hoàn hảo, còn bị ràng buộc, trói trăn. Làm Phật tất phải biết hơn chúng sinh, phải làm hơn những việc của chúng sinh làm, mới xứng đáng cho chúng sinh thờ kính và quí trọng. Ví bằng Phật mà không làm hoàn toàn bổn phận con người, không vượt trên bậc phàm, thánh, thì hẳn kẻ phàm, thánh dù có thờ, cũng không trọn kính. Và như thế thì không thành một vị Phật...” (Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 67-68).

    Tế Điên Hòa Thượng có nói: “Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhân Đạo. Nhân đạo bất tu, Tiên Đạo viễn hỷ.” Muốn tu Đạo Tiên Phật, trước phải tu đạo làm người. Đạo làm người mà không tu, thì Đạo Tiên Phật khó đến vậy. (Vương Kim, Bửu Sơn Kỳ Hương, tr. 31.)

    Những tư tưởng trên đây thật là trong sáng, và rất chính xác. Đáng khâm phục.

  5. #5
    Administrator
    Ngày tham gia
    Mar 2019
    Bài viết
    27
    Trong chủ trương canh tân nói trên, sự thờ phượng trong nhà các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thật là giản dị.

    Trên bàn thờ, không có tượng Phật, không có chuông mõ. Chỉ có một tấm Trần bằng vải màu đà, tượng trưng cho sự hòa hợp nhơn loại, và cho màu sắc nhà thiền. Đó là bàn thờ Chư Phật. Dưới bàn thờ Phật là bàn thờ Cữu Huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ đã khuất. Trước nhà có một bàn thờ lộ thiên (gọi là bàn Thông Thiên) để người tín đồ cảm thông với Trời Đất, bốn phương trời, mười phương Phật. Chỉ dùng nước lạnh, bông hoa, và nhang để cúng Phật. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng để khử mùi uế trược.


    Mỗi ngày người tín đồ PGHH làm lễ cúng Phật, ít nhứt hai lần, buổi sáng và buổi tối. Trong các ngày rằm, mồng một, ngày vía Chư Phật, họ đến chùa hay hội quán hành lễ, và nghe kinh giảng hay nghe thuyết pháp.

    Lúc đảnh lễ họ không dùng mõ chuông, mà chỉ lâm râm tâm niệm. Khi nào mắc công việc thì đến giờ hành lễ họ quay mặt về hướng Tây mà cúng Phật, và khuyến khích nhau ngồi đâu, ở đâu cũng tụng niệm trong tâm.

    Ngoài ra trong các Xã, Ấp có những độc giảng đường trang bị máy phóng thanh, để mỗi ngày trong những giờ nhất định, có những giảng viên đến đọc kinh giảng hay thuyết pháp cho người chung quanh cùng nghe.

    Độc Giảng Đường Phật Giáo Hòa Hảo là những ngôi chùa thâu hẹp chỉ để truyền đạo, chớ không phải để cư trú, nên nhỏ hơn chùa, bởi bản chất Phật Giáo Hòa Hảo là cư sĩ tại gia.
    Hiện nay chỗ nào có nhiều tín đồ PGHH đều có Độc Giảng Đường, với nét kiến trúc đặc biệt của Phật Giáo Hòa Hảo. Theo kiểm kê năm 1965, Phật Giáo Hòa Hảo có 390 Độc Giảng Đường.

    Giới nghiên cứu giáo lý PGHH đã đúc kết hệ thống tư tưởng của Huỳnh Giáo Chủ thành một công thức ba bước bất khả phân: Bước thứ nhất là học Phật, bước thứ hai là Tu Nhân, bước thứ ba là tìm về cứu cánh giải thoát. (PGHH Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, Nguyễn Long Thành Nam. Tr 284)




    Huy Hiệu PGHH

    Cờ đạo hình chử nhật màu đà, không có chữ hay hình tượng nào. Huy hiệu PGHH hình tròn màu đà, bìa vàng trên có bông sen trắng và bốn chữ viết tắt PGHH.

  6. #6
    Administrator
    Ngày tham gia
    Mar 2019
    Bài viết
    27

    Tôn-chỉ hành đạo pghh

    NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU-HIỀN

    Đạo Phật từ xưa tới nay luôn luôn phân làm hai hạng người:

    1. Hạng xuất gia
    2. Hạng không xuất gia

    HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni-cô đã hoàn-toàn ly-khai với gia-đình, quê hương, bè-bạn, dựa thân vào cửa Thiền hay núi non am cốc, hàng ngày chỉ chuyên lo kinh-kệ, săn-sóc cảnh dà-lam, trau luyện đức lành, dồi mài trí-tuệ hầu giảng giải cho bá-tánh thập phương nghe để quay đầu hướng thiện qui-y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia-đình nhà cửa của nhà sư là cả thế gian, thân quyến nhà sư là khắp nhân loại đại đồng.

    Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả thoát kiếp luân-hồi.

    HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện-nam tín-nữ chưa đủ những điều-kiện xuất-gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia-đình, với đồng-bào xã-hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni-cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn-sàng hoan-nghinh ca-tụng lý-tưởng từ-bi bác-ái đại-đồng của nhà Phật và luật Nhân-quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở nhà họ phượng thờ Đức Phật, phát nguyện qui-y, giữ gìn ít điều giới-luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răng lòng, ủng-hộ các sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải-thoát.

    Đây là hạng người học Phật tu Nhân.

    Bàn xét như trên, thấy rằng toàn-thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại tư gia cư-sĩ, học Phật tu Nhân vậy.

    Sách xưa có câu: "Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên" (muôn vạn quyển kinh của Phật, Thánh Tiên đều dạy sự hiếu-nghĩa làm đầu). Hôm nay đã qui-y nhà Phật, tu-niệm tại-gia, ta hãy cố-gắng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu-nghĩa.

    Đức Phật Thầy TÂY-AN thuở xưa thường khuyến-khích các môn nhơn đệ-tử rằng: Muốn làm xong hiếu nghĩa, có bốn điều ân ta cần phải hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn:

    1. Ân Tổ-Tiên cha me,
    2. Ân Đất-Nước,
    3. Ân Tam-Bảo,
    4. Ân Đồng-Bào và Nhơn-Loại (với kẻ xuất-gia thì ân đàn-na thí-chủ).

    ÂN TỔ-TIÊN CHA MẸ: Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên, nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận biết ơn tổ-tiên nữa.

    Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn sanh tiền, có dạy ta điều hay lẽ phải ta rán chăm-chỉ nghe lời, chớ nên xao-lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn- cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mê khỏi đói rách, khỏi-bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa-hảo trong huynh đệ, tạo hạnh-phúc cho gia-đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa-mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng nhiều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu-thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm-luân.

    Còn đền ơn tổ-tiên, đừng làm điều gì tồi tệ, điếm nhục tông môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai lầm, gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyến chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo-nghĩa, rửa nhục tổ-đường.

    ÂN ĐẤT-NƯỚC: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ-tiên, cha mẹ, sống ta cũng phải nhờ đất nước, quê-hương. Hưởng những tất đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền-thụ, ta cảm thấy bổn-phận phải bảo vệ đất-nước khi bi kể xâm-lăng giày đạp. Rán nâng-đỡ xứ sở quê-hương, lúc nghiêng-nghèo, và làm cho trở nên được cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ-cõi vững-lặng thân ta mới yên, quốc-gia mạnh giầu mình ta mới ấm.

    Hãy tùy tài tùy sức, nỗ-lực hy-sinh cho xứ-sở. Thảng như không đủ tài lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ giúp đỡ quê-hương, ta phãi rán tránh đừng làm việc gì sơ-xuất đến nỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất-nước.

    Đó là ta đền ơn cho đất-nước vậy.

    ÂN TAM-BẢO: Tam-Bảo là gì ? Tức Phật, Pháp, Tăng.

    Con người nhờ tổ-tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất-nước tạo kiếp sống cho mình, ấy về phương diện vật chất.

    Về phương diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai trí mở óc cho sáng-suốt. Phật là đấng toàn-thiện, toàn-mỹ, bác-ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh-linh ra khỏi trầm-luân khổ-hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng, đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban-bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại-đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta phải kính trọng Phật, hãy tin-tưởng và tín-nhiệm vào sự-nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những lời chỉ dậy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm-mầu, lòng quảng-ái của Phật đối với chúng-sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài, đã hành-động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy và đã vun-trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát-triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài Đạo-hạnh vô thượng vô song roi truyền mãi mãi với hậu thế.

    Nên bổn-phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền-nhân hầu làm sao trí-tuệ minh-mẫn đặng đi đến con đường giải-thoát, dẫn dắt giùm những kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp-tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ-bi bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá-tánh. Như thế mới chẵng phụ công trình vĩ-đại của Đức Phật và của tiền-nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

    ÂN ĐỒNG-BÀO VÀ NHÂN-LOẠI: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp-đỡ những kẻ xung-quanh và cái niên-kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy.

    Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong-vũ. Vui-sướng, ta đồng hưởng với họ. Hoạn-nạn, họ cùng chịu với ta.

    Họ và ta cũng một màu da, cũng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thi thành lại làm một: ấy Quốc-gia đó. Họ là ai? Tức những người ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.

    Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc, cùng một nòi-giống roi truyền, cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy- biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên ta phải ráng giúp đỡ họ hầu đền đáp cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

    Chẳng những thế thôi, ngoài-đồng bào ta còn có thế-giới, người đang cặm cụi cần-lao cung cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân-loại, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Ta có thể tự-túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong-vũ nhiệt hàn với những lúc ốm đau, nguy biến, giữ vững cuộc sống còn này chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là nhờ đến dân-tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng-chủng mình.

    Vả lại, cái tính từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tính ấy nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biêt chủng-tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã-hội mà chỉ đặt vào một Nhân-loại Chúng-sanh.

    Thế ra không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng-bào mình gây ra tai-hại cho các dân-tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hòa một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn-phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn.

    Đối với những kẻ xuất-gia qui-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân các đàn-na thí-chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo tâm cung-cấp những vật dụng cần-thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống, rốt lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưởng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng.

    Với quần-sanh, họ mang cái ơn rất nặng, cho nên họ phải dìu-dắt sinh linh đi tầm Chân-lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu-cố của thiện-tính.

  7. #7
    Administrator
    Ngày tham gia
    Mar 2019
    Bài viết
    27

    Luận về tam-nghiệp

    Sanh ra ở đời, con người dầu muốn dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào môt chữ ĐẠO, đạo của con người kêu bằng Đạo-Nhân và đó là con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết

    Muốn làm tròn Nhân-Đạo, phải giữ vẹn tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam-nghiệp và chừa Thập-ác, cũng như muốn làm giầu phải tránh đừng cho thiếu nợ.

    Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây:

    Thân nghiệp :
    (tội lỗi do xác thân gây nên);
    Khẩu nghiệp: (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên);
    Ý nghiệp: (tội lỗi do ý tưởng gây nên);

    Ba nghiệp-chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây:

    Thân nghiệp sanh ba điều ác:

    1. Sát-sanh
    2. Đạo-tặc
    3. Tà-dâm


    Khẩu nghiệp sanh 4 điều ác:

    1. Lưỡng-thiệt.
    2. Ý-ngôn.
    3. Ác-khẩu
    4. Vọng-ngữ.


    Ý nghiệp sanh 3 điều ác:

    1. Tham-lam
    2. Sân-nộ
    3. Mê-si


    SÁT SANH:

    Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lớn khôn vì phải chung chạ với thế-giới người hung tàn bạo-ngược, tánh nết ô-nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc-ác dữ dằn.

    Loài người giết nhau vì tiền tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi-danh, vì quyền-thế, vì thù hềm, vì háo thắng... nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã-hội, của một quốc-gia; họ muốn tiêu-diệt tất cả nhân-loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.

    Tại trào-nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương-tàn tương-sát. Ngoài lê-thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương-tàn rất thường xảy ra trong nhân-loại không ngoài các lý-do kể trên. Đó là người đối với người.

    Người đối với thú cầm, sanh-vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì dị-đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo..,) để nuôi thân sống, nhưng chẵng khá dựa vào lý vật dưỡng nhơn (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vào đúng theo sự nhu-cầu cần thiết của các món thực-phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy-sinh nó, nếu sự hy-sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhất là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sanh vật chúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rat sai lầm huyền-hoặc, vì đứng vào bực hình cao cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khấn vái Phật Trời cầu cho tai nạn qua khỏi, lại giết các thú vật tế Thấn cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyênn nhân các sự họa-hoạn, không chịu tìm hiễu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu và khônng chịu ăn-năn chừa lỗi, tạo-tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.

    Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú-vật vì sự vui thích của mình ; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng quên hẳn rằng sinh vật cũng có linh hồn, cùng có thân xác, cũng biết tìm lẻ sống còn như nhân loại vậy.

    Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhất là đối với các gia-súc : trâu,bò, ngựa, chó,mèo... chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt-hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày cha lạt hãy cữ hẳn.

    Đạo Tặc Câu Bần cùng sanh đạo-tặc cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô đạo. Những kẻ nầy ngày vẫn-vơ đầu đường xó-chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn-bã của xã-hội nầy, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an-ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của đoạt giựt tài-sản của lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ-hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia- đình cần-lao kiệm-tiết, là nguyên-nhân của sự nghèo khổ, họ phá-hoại hạnh phúc của con người.

    Cơ-hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân-chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân-xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành-vi đen tối, nếu họ không chịu-ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghi, lánh điều phi nghĩa:

    TÀ DÂM:

    "Muôn việc lành hiếu-thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước" Sách sử thường bảo như thế.

    Lần dở xem sử-sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn khắp nơi, từ trào-nội cho đến thư- dân, từ trong gia-đình cho đến kẻ xa người lạ, nó là mầm gây ra biết bao thảm-trang! Gương của vua Tề với vợ Thôi-Tử, An-lộc-sơn với Dương- quí-Phi há chẳng còn lưu-liên hậu thế. Giàu ỷ của hiếp-dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cường bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ từ xưa đến nay luôn luôn đều có.

    Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, nuốn giữ-gìn tiếng tăm của gia- thế, phải đừng để dục tình lôi-cuốn, bắt trước gương xưa trau dồi lòng hiếu trung trinh- tiết.

  8. #8
    Administrator
    Ngày tham gia
    Mar 2019
    Bài viết
    27
    LƯỠNG-THIỆT:

    Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng-thiệt này đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi-vả gây-gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẻ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn-kết tình thân yêu giữa nhân-loại. Nó cũng là nguồn-cội của bao nhiêu bất-hòa, hiềm-kích.

    Để giải-trừ những tai-vạ ấy, phải giữ cho lời nói của mình được thành thật, chánh đáng ; được vậy trong hương-đảng mới bớt rầy-rà, ngoài xã-hội không điều xích-mích và mình cũng không chịu ác cảm, tránh sự miệt-khinh của kẻ khác.

    Ỷ NGÔN:

    Nói đến tội ác này tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chửi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xỉ người nghèo, kẻ xảo-quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn ngoan dùng lời nói hạ nhục người dốt nát.

    Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc phước vô phần nên phải chiu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ-từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội lỗi.

    ÁC KHẨU:

    Những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi mắng tục tằn làm ra lỗi này ; con chưởi mẹ mắng cha không kể luân-thường thảo hiếu; mạnh bao hăm he đánh giết những kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia-đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long-cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chập.

    Hãy bỏ những tiếng tục-tằn thô-lỗ làm cho đời sống được êm dịu thanh bay hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm-chỉnh. Đối với con cháu trong nhà không nên nói những điều ác đức; phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng.

    VỌNG-NGỮ:

    Thêm thừa huyển-hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng- ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân-loại. Thương người nào kiếm cách bào-chữa giấu-giếm sự quấy và thêu-thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy những điều phải của họ. Khoe-khoan, tự- đắc, xảo-trá đa-ngôn, những kẻ điêu-ngoa làm cho thiên-hạ khinh-khi miệt-thị.

    Muốn tránh những điều khiến cho tư-cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân-chánh, bỏ lối láo xược trớ trêu. Chẳng nên tráo-trác với người, bỏ tiếng xảo-ngôn và phải dùng lời chơn-chất.

    THAM-LAM:

    Tánh tham-lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ : Chiến-tranh, cướp bóc, giết người... Tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế... Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt, gây nên những thảm họa tầy trời. Những tấn tuồng giặc giả cướp của sát nhơn, những vụ hối lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sanh điêu-linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự-sát chỉ vì sự ham muốn không được thực-hiện, người ta quyên-sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận... Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung hăng bạo-ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sư khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn ; đời ta mất, nó mất ; gương Thạch-Sùng, Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích-đáng lắm ru? Thế nên hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị-kỷ tham lam, lo vun-trồng phước đức, bố thí kẻ nghèo hèn, rán công-phu sám-hối để có thể yên vui miền Cực-Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần nầy.

    SÂN-NỘ:

    Tánh nóng nẩy thường xúi con người làm những chuyện bất-công sái phép, chém- giêt oán-thù nhau. Kẻ thắng kiêu-hãnh, người bại hổ ngươi, nên sự hềm thù càng lan rộng "Giận mất khôn", cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ-dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến sự công-bình, lẽ phải trái.

    Diệt được nó, tâm ta được thảnh-thơi, trí ta được thong-thả. Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm-lỗi. Hãy nhẫn nhịn và chẳng nên cãi cọ, tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hềm-khích.

    MÊ-SI:

    Tội ác nầy do sự thiếu óc phán-đoán thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chơn-lý. Suốt cả đời ngu-muội, chỉ biết mê man theo những vât nhỏ nhen, mau tan, mau rã, chỉ biết tin hướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải-thoát.

    Hãy xóa bỏ những điều mê-tín, qui-thuận theo tinh thần đạo-đức, lánh chồn mê lầm, tỉnh cơn mộng-huyễn phá tan màn vô-minh che mờ tâm-trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chổ Bất-diệt, Bất-sanh.

  9. #9
    Administrator
    Ngày tham gia
    Mar 2019
    Bài viết
    27

    Luận về bát chánh

    Trừ xong ba nghiệp chướng, hãy làm theo tám điều chánh và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra: như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo-hạnh. Những sự tấn-bộ ấykhông có nghĩa là đạt được mục đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát-Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê-đồ, tấn-triển trên đường giải-thoát.

    Bát-Chánh gồm có:

    1. Chánh kiến
    2. Chánh tư-duy
    3. Chánh nghiệp
    4. Chánh tinh-tấn
    5. Chánh mạng
    6. Chánh ngữ
    7. Chánh niệm
    8. Chánh định


    CHÁNH KIẾN:

    Chánh: đúng sự thật ; Kiến: thấy xem xét. Chánh kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.

    Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng-suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán-đoán không công-bình chánh-đáng làm cho kẻ khác bị oan tình. Vì thế mục Chánh Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê phán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cựu--điểm, cách xét đoán tận-tường, tránh cho ta những tà kiến (sự xem xét lầm-lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí- tuệ mịt mờ u-ám, giúp cho ta hiểu biết rõ ràng, minh bạch, cách phán-đoán được ngay thẳng công-bình.

    Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo, khiến ta xua đuổi các điều tà-mi, bỏ các sự say mê trở về với đạo-lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả những sự giả dối và nhờ thế, nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.

    CHÁNH TƯ-DUY:

    Tư-tưởng chơn-chánh. Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ : lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng...cái tư-tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thề nào thoát-ly ra được. Ấy về phần tà.

    Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí ráng tìm cái Chân-lý, Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình. Vì thế, phải đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm-luân oan-nghiệt. Hãy tin tường Phật Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phước lành cho nhân chúng. Hãy tìm con đường giải-thoát cho mình bằng cách lạc Đạo-an-bần, xả thân tu tỉnh.

    CHÁNH NGHIỆP:

    Việc làm chánh đáng ngay thẳng.

    Đối với kẻ xuất-gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập-định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công-quả cho nhà Thiền, chẳng có việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.

    Những kẻ tai gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh-nhai, mưu cuộc sống còn; kẻ buôn tảo bán tần, người việc này việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sồng của họ có bị sự sinh nhai chi-phối, song cái chi-phối ấy khác hẳn với kẻ gian-tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo-trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điềm, bán á-phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ v.v...

    Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề-nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy-lạc, hoang-đàng, trá hình tửu-điếm... Họ là đồng lõa mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say sưa.

    Thế nên mục đích Chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.

    Kẻ tại gia cư-sĩ chũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém dâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.

    CHÁNH TIN-TẤN:

    Tín-ngưỡng chơn-chánh và lướt tới.

    Phái vô-thần-luận thường cho rằng thân xác tức con người. Thân còn tức người còn, thân mất là người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả-báo luân-hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sồng là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên biết bao nhiêu mánh-khóe gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo-trá, bao nhiêu tàn bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.

    Vì vậy, chánh chi-tấn nầy khuyên hãy rán giữ đức-tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín-ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thể lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng-trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta phải có bổn phận giác ngộ trần-gian bỏ những oan trái luân-hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới; quyết chí tu thân đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá-tánh thập phương xa miền tục-lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà vạy, dẹp lục căn, lục-trần và rán làm cho tinh-thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện-mỹ : yên-tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu một lòng bước tới Niết-Bàn đặng quyết có tế- độ chúng-sanh thoát khỏi luân-hồi quả-báo.

    CHÁNH MẠNG:

    Sanh-mạng chân-chánh, trong sạch.

    Ở đời, người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quí trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức-phận cao.

    Người ta tìm đủ phương-thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.

    Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh-thần bị đen tối ; bỏ hết đài-các xa-hoa, thân mình tự chủ đễ tìm chỗ bất diệt bất sanh ; thiền định đặt làm thể, trí-tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập Liêu-hoa, siêu sanh vào cõi Niết-Bàn.

    CHÁNH NGỮ:

    Lời nói chơn thật.

    Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần.

    Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy, cũng có nghiệp--chướng của miệng lưởi: Lưỡng-thiệt (làm cho thiên-hạ bất hòa nhau), Ỷ-ngôn (lời chưởi mắng kẻ dưới tay), Ác-khẩu (tiếng độc ác tục-tằn, chưởi rủa Thần Thánh), Vọng ngữ (nói láo, nói huyễn-hoặc).

    Hãy tập lời nói mình cho chân chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo-chác, những tiếng thô-lỗ cọc-cằn, phàm những khi bàn luận việc chi, phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới người trên, lời nói phải cho hiền-lương đức-hạnh va những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích-lợi cho chúng-sanh và đều hạp với tinh thần đạo-đức.

    CHÁNH NIỆM:

    Ghi nhớ sự chân-chánh.

    Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng. Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biêt bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí-não phụng-sự nó. Danh lợi, cảm-tình, uy-quyền, phú-quí ... được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.

    Để thoát khỏi chổ luân-hồi bỏ cuộc đời lầm than hoạn-họa, hãy rán tưởng-niệm phương pháp hành đạo, bỏ các điều phù-phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần-sanh, bia-tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc-động, các mối dục tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.

    CHÁNH ĐỊNH:

    Suy-gẫm chơn-chánh.

    Con người thường hay có những ý định làm cho mình được sáng thêm lên, được giầu thêm lên, được sung sướng thêm lên... nghĩa là những ý-định hoàn-toàn nhỏn nhen thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của cải gia-tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái Sanh, cái Bịnh, cái Lão, cái Tử được đặt lên cuộc đời người này rồi đến ngưới khác... rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả nhân-loại không thiếu sót một ai. Thế mà họ vẫn cuống-cuồng tâm trí theo bả lợi-danh, mùi phú-quí, đi theo những vặt-vụn tiểu-ti co-hẹp.

    Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp sống phù-du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền định mà phá tan màn u-minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn, hết khổ, hết quả báo luân-hồi. Và khi ta dùng sự chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền-não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị-dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt không nhiểm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-thoát.

  10. #10
    Administrator
    Ngày tham gia
    Mar 2019
    Bài viết
    27

    Cách tu hiền và sự ăn-ở của một tín-đồ p.g.h.h

    THỜ-PHƯỢNG

    Từ trước đến nay, các chùa chiền đã tạo ra quá nhiều hình tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ-Bi mới làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của các chùa-chiền. Cách thờ phượng ấy tùy theo điều-kiện các nhà sư mà chúng ta cũng có thể sùng-ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào các sự hào nhoáng bề ngoài. Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây-An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông-phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức Phật, nên toàn-thể người trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu-hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa-hiệp của nhân-loại không phân biệt chủng tộc và cá-nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần vô thượng của nhà Phật.

    Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông-Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ-bái ở ngoài. Còn người nào có cốt Phật ở trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải ở chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chổ phượng thờ, thì đến giờ cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.

    Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu-biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu-biểu cho sự tinh khiết, còn nhang, dùng đặng bán mùi uế-trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng.

    Ngoài sự thờ Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ và những anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn-tích.

    HÀNH LỄ

    Chỉ thờ lạy Đức Phật, Tổ-tiên, ông bà cha mẹ lúc còn sống và các vị anh-hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn những sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi. Tất cả các hành-động trong Đạo hay ngoài đời trước khi làm điều gì phải tính toán một cách cẩn thận đừng làm chuyện ngông-cuồng vô ý thức. Một đừng ỷ lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ lại vào sự cứu-vớt của Thần Thánh, ba đừng ỷ lại sự binh-vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn-Quả của Phật dạy nếu, Nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào hành-động ngông-cuồng không suy-xét cẩn-thận để đến đỗi thất bại đem đến sự khó khăn, khổ-não rồi trách cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm lạc ấy rất đáng thương hại.

    Mỗi người nên lấy trí thông-minh nhận xét đạo-lý của Thầy mình, chớ đừng lấy đức-tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường-tận. Như thế mình mới có thể tấn-hóa trên con đường đạo-đức.

    Những điều sơ-lược giải-thích trên đây mong rằng toàn-thể trong Đạo suy-gẫm kỹ-càng và thực hiện để bài trừ sự mê-tín ngông-cuồng của tiểu số người trong Đạo, làm cho tư-tưởng thiện-hòa của Phật-đạo được phát-triển mau chóng.

    TANG LỄ

    Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ, chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:

    Bây giờ chúng ta đã qui-y đầu Phật thì phải do sự thành-tâm cầu-nguyện, và đem sức khấn vái của anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong linh người chết được siêu-sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy-tiền vàng-bạc, xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì ta nên nhận-định rằng xác thịt là hư -hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín đáo đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu-sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu-thuận nhơn-nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời mà cầu nguyên, rồi im-lặng đi chôn.

    Về việc cúng kiến ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy, trong những ngày kỷ-niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng hương-đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản tiện, ít lãng phí cứ làm.

    CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT

    Mỗi người đứng trước bàn thờ Phật niệm "Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật" (ba lần), và Nam-Mô A-Di-Đà Phật (ba lần).

    Vái: "Phật-Tổ, Phật-Thầy, nay mình thành tâm cầu nguyện cho tên . . . . . . . . (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ-bi cưú-độ vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng- sanh miền Cực-lạc!" Trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ-chức sắp hàng chắp tay niệm : "Nam-mô Tây phương Cực-lạc thế giới tam-thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp dẫn vong linh A-Di-Đà Phật" (nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc : "Tiếp dẫn đạo sư A-Di-Đà Phật") .

    NÊN LƯU Ý: Tang-gia đừng nên khóc lóc, để tĩnh tâm cầu-nguyện cho người chết, vì khóc-lóc làm trở-ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.

    HÔN NHƠN

    Bổn-phận cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách xứng đáng bằng sự quan-sát tường tận về đức-tánh đôi trai gái. Không nên ép uổng con mình quá đáng, vì như thế làm cho khốn-khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự-do mà sự thiếu kinh-nghiệm làm cho đời chúng phải hư-hỏng.

    Nên bỏ tục-lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ vật. Thông-gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc, lễ linh-đình tốn kém nhiều tiền, làm cho trở nên nghèo khổ.

+ Trả lời Chủ đề
Trang 1 của 2 1 2 CuốiCuối

Tag của Chủ đề này

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình