Lão Tử là một triết gia Trung hoa sống ở khoảng thế kỷ thứ 4 TCN. Ông là người viết Đạo Đức Kinh (道 德 經) - và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạo tổ 道 祖). Tác phẩm của Lão Tử, cuốn Đạo Đức Kinh, là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác của ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học từ bản thể vũ trụ, đến chính sách cai trị, cả cách tu luyện thân xác nữa. Mặc dù đạo Lão đề cao chữ Đạo, với nghĩa qui luật vận hành của tự nhiên, nhưng ứng dụng Đạo không dễ. Vì trình bày của Lão tử về Đạo hơi khó hiểu. Hơn nữa đời sau, lại có nhiều người giải thích Đạo khác nhau. Nhìn chung, người ta đều hiểu Đạo Lão là đạo tự nhiên. Nhưng qui luật tự nhiên nhiều khi chằng chéo nhau, nên muốn hiểu đạo Lão phải qui tư tưởng của ông về một mối giản dị, thì mới có thể ứng dụng nó được.


Khổng Phu Tử

Để tìm hiểu một cách giản dị đạo của Lão tử, ta đi thẳng vào khái niệm trung tâm của đạo là vô vi. Điều này có nghĩa là người ta cần nhận thức rõ qui luật vận hành của tự nhiên, sau đó hành động theo xu thế của nó, không chống lại nó.

Chính vì trọng cái vô vi, nên thay vì đi tìm qui luật vận hành của tự nhiên, nhiều người theo đạo Lão đi tìm qui luật vận hành của chính cơ thể mình. Họ lập ra một trường phái đạo dẫn, tức là dẫn đạo đi khắp cơ thể. Trường phái này coi loài người là con đẻ của tự nhiên, họ tìm thấy tự nhiên vận hành trong các mạch máu và hơi thở của mình. Cho nên tu môn đạo dẫn là tu luyện hơi thở. Những người đạt đạo, có thể lần theo từng hơi thở trong từng khắc, từng giây. Hơi thở như vậy gọi là vô vi. Khi vô vi có thể lướt gió cưỡi mây như Liệt tử và Dương tử. Ngày nay nghe những chuyện đó chúng ta cho là hoang đường, nhưng những chứng cứ về các nhà Yoga hiện đại (được truyền hình trực tiếp) có thể nâng mình khỏi mặt đất vài chục phân trong hàng giờ làm chúng ta băn khoăn về khả năng của con người.
Dẫn đạo chính là tích Kim (dưỡng khí) một cách nhẹ nhàng vào phổi, tản Thủy (dẫn ô-xy) đến từng cơ bắp cũng hết sức nhẹ, sao cho sinh Mộc (năng lượng) một cách đồng đều tại từng phần của cơ thể. Năng lượng (Mộc) ấy hợp lực thành một sức nâng mạnh mẽ mà nâng cơ thể lướt đi. Toàn bộ phép luyện đạo dẫn chung qui lại chính là phép luyện hơi thở theo Ngũ hành.

Cho nên, đạo Lão xét cho cùng là, thứ nhất đối với sự hướng nội thì tích/tản khí mà luyện đạo dẫn, thứ hai đối với sự hướng ngoại thì tìm hiểu qui luật vận động của tự nhiên, rồi từ đó học theo để hành động cho đúng. Mà qui luật tự nhiên chính là Ngũ hành. Cho nên trong ba đạo, thì đạo Lão gần với Ngũ hành hơn cả.

Sự đồng hành của Phật – Nho – Lão tại Việt nam

Ở trên chúng tôi đã lướt qua ba đạo lớn ở Việt nam. Đạo Nho và đạo Lão từ Trung quốc truyền sang, còn đạo Phật (có thể là) từ Ấn độ tới. Đất Việt lại được người Pháp gọi là Indochine. Gọi như vậy đúng về địa lý, vì đất Việt nam là nơi tiếp giáp giữa hai lục địa, hai quốc gia lớn là China (Trung hoa) và Inde (Ấn Độ), nhưng cũng đúng về văn hóa nữa. Chúng ta đã tiếp thu được những tinh hoa của hai nền văn hóa lớn Trung Hoa và Ấn Độ.
Khi các luồng tư tưởng và văn hóa lớn truyền sang nước Đại Việt, thì người Việt đã biết tiếp thu và hòa đồng. Bởi vì, dân ta là một trong những dân tộc sớm nhất trên thế giới phát hiện ra Ngũ hành (xem truyền thuyết Thánh Gióng trong chương I), nên khi hấp thu Đạo Phật, Đạo Lão và Đạo Nho, đã dễ dàng hòa đồng ba giáo lý lớn đó trong tâm hồn. Do vậy tâm hồn Việt chính là sự hòa đồng của ba đạo lớn nhất này làm một, trên cơ sở tư duy Ngũ hành.
Các học giả nói ở Việt nam có tam giáo đồng hành chính là vì lẽ đó. Các cụ đồ nho xưa học theo Khổng tử, nhưng không quá khắc kỷ, hành xử nhân ái (Phật), về già thường ung dung tự tại, biết tới lui nhịp nhàng (Lão). Sở dĩ vậy, vì mỗi tâm hồn Việt từ trong trứng đã có cái chất keo dung hợp cả ba đạo ấy trong mối luân chuyển của Ngũ hành.

Nhìn lại mảnh đất Việt nam, chúng ta thấy dân tộc mình thật hạnh phúc. Với sự sáng tạo ra truyền thuyết Thánh Gióng, trên cơ sở nhận thức rõ biện chứng tự nhiên của sự phát triển (Ngũ hành) từ rất sớm, tâm hồn người Việt dễ dàng thâu nhận cả Nho, Phật, Lão. Khi hòa đồng như vậy, thì tư duy Ngũ hành ngày càng nhuần nhuyễn, càng cho phép chúng ta dễ dàng chấp nhận một thế giới đa văn hóa.

Khi chấp nhận các thực thể đa văn hóa chúng ta có thể tích những nét tinh hoa của một nền văn hóa này mà không cần phải loại trừ tinh hoa của một nền văn hóa khác. Sau khi tích Kim đa văn hóa, chúng ta có thể tản Thủy đa văn hóa, điều đó cho phép chúng ta có những sáng tạo mới, mà có thể là rất mới nữa.

Nếu xem văn hóa là một công cụ phát triển kinh tế, thì tích Kim đa văn hóa sẽ là công cụ cho phép chúng ta hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Điều kiện để sáng tạo đa văn hóa là chúng ta phải sáng tạo ra các sản phẩm mang bản sắc Việt mà vẫn có các nét quyến rũ của một nền văn hóa khác.

Sự hòa hợp ba giáo lý lớn theo Ngũ hành chính là bản chất văn hóa tột cùng của dân tộc ta. Nếu biết phát huy một cách khéo léo thì chúng ta có thể vượt qua cái giờ khắc tròng trành lúc mới ra biển lớn (tham nhập WTO) này để tiến lên vị trí một dân tộc hàng đầu trên hoàn cầu vậy.