Nói đến thiền là nói đến hơi thở. Rõ ràng hơi thở là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm.

Âu Mỹ mới đi sâu nghiên cứu về thiền chừng khoảng nửa thế kỷ nay và những năm gần đây, thiền đã chính thức được coi như là một phương pháp trị liệu. Nhiều trường đại học y khoa lớn trên thế giới đã nghiên cứu và ứng dụng.

Thiền – phương pháp trị liệu


Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ thiền cũng giống như giấc ngủ hay nghỉ ngơi tích cực. Nhưng nghiên cứu cho thấy thiền là một trạng thái an tịnh tỉnh giác (state of restful alertness) ở mức tiêu thụ năng lượng thấp nhất tùy trình độ hành giả! Trong lúc thiền, hành giả có thể giảm đến 40% nhu cầu ôxy và giảm 50% nhịp thở. Các nghiên cứu sinh lý học về thiền vẫn còn đang tiếp diễn nhưng đã chứng minh được thiền có khả năng làm giảm stress, cao huyết áp, tạo sự sảng khoái, yếu tố của sức khỏe, của chất lượng cuộc sống.

Theo thống kê của một cơ quan bảo hiểm y tế, thiền giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân và giảm số lần đi khám bệnh. Nghiên cứu đối chứng về cơn đau kinh niên, trầm cảm, thiền làm giảm 50% các triệu chứng tâm thần và giảm 70% triệu chứng lo âu. Thiền cũng giúp làm giảm cân, béo phì, nghiện thuốc lá, rượu và các chất ma túy nói chung.

Hành giả thực hành thiền hơn năm năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi, dựa trên ba yếu tố là huyết áp, khả năng điều tiết nhìn gần của thị giác và khả năng phân biệt của thính giác.

Đặc biệt, một nghiên cứu đối chứng ở 44 bệnh viện tại Mỹ cho thấy thiền đã giúp làm giảm sai sót chuyên môn y khoa đến 50%, đồng thời cũng làm giảm 70% các vụ khiếu kiện của bệnh nhân đối với bệnh viện. Ở các công nhân kỹ thuật có thực tập thiền trong tám tuần cho thấy họ làm việc phấn khởi hơn, thích thú hơn, nhiệt tâm hơn, giảm thiểu các bệnh cảm cúm thường gặp trong khi nhóm chứng không có sự thay đổi. Tóm lại, hiệu quả của thiền đã được chứng minh trong nhiều lĩnh vực đời sống.

Không phải “thở nào cũng là thở”

Ở Đông phương, thiền đã được biết đến từ rất lâu đời. Có lẽ từ ngày xa xưa con người tình cờ phát hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái an lạc, sảng khoái, siêu thoát nào đó, một trạng thái nói không được mà chỉ có thể cảm nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích lũy kinh nghiệm, truyền đạt lại cho nhau bằng nhiều cách.

Dù gọi là thiền (Việt) hay chan (Hoa), zen ( Nhật)... thì cũng đều có nguồn gốc từ dhyana (Sankrist) hay jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quán sát, là theo dõi và Ana là thở, hơi thở, là khí. Vậy jhanas hay dhyana chính là quán sát hơi thở. Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một việc có vẻ rất giản đơn là “quan sát hơi thở” lại có thể dẫn tới sức khỏe, dẫn tới tuệ giác.

Các bài học cơ bản về thực tập thiền thường bắt đầu bằng câu “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra...” dễ gây hiểu lầm. Thở thì ai mà chả biết thở kia chứ? Thực ra ở đây không phải là “biết thở” mà là nhận thức được (recognize, discern), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra kia kìa mới là điều cốt lõi!

Câu hỏi đặt ra là tại sao quán sát hơi thở, quán sát hơi thở thì có cái gì hay? Sao không chọn quán sát các đối tượng khác? Thật ra thì quán sát cái gì cũng được cả nhưng hơi thở thì dễ quán sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta biết với ta thôi! Mỗi phút ta lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò, lúc êm dịu. Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái, ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Nhờ đó mà quan sát được cái tâm ta. Thở lại gắn liền với hoạt động cơ bắp, khi mệt, ta “bở hơi tai”, mệt đứt hơi! Do vậy mà quan sát được cái thân ta. Rõ ràng hơi thở là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Nói khác đi, ta có thể dùng quán sát hơi thở để kiểm soát cảm xúc và hành vi của ta.