Lời Đức Hộ Pháp:

“Mình cũng là một vật của toàn vạn vật trong
vũ trụ, nếu mình không biết Thượng Đế thì
mình lại chẳng biết mình…”


Diễn văn của Đức Hộ Pháp
đọc tại Tòa Thánh Tây ninh
15-7 Nhâm thân/16-8-1932

2 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?
TIỂU DẪN

Trước khi đi vào đề tài này chúng ta cần có một tín niệm
tiên quyết rằng “Thượng Đế là Đấng tự hữu và hằng hữu”.
Vì trong Tam kỳ Phổ độ Thượng Đế đã khải thị rằng:
“Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì khí Hư vô
sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái cực… Thầy
phân Thái cực ra Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sanh Tứ tượng.
Tứ tượng biến Bát quái, Bát quái biến hóa vô cùng mới lập
ra Càn khôn Thế giới.” (TNHT /Q2 / tr. 62)

Câu này có nghĩa là Thượng Đế từ Hư vô chi khí mà có.
Ngôi của Ngài là một khối Thái cực, Ngài mới phân Thái
cực ra Lưỡng nghi (Âm Dương), Âm Dương sinh Tứ tượng
(Thái dương, Thiếu âm, Thái âm Thiếu dương), Tứ tượng
sinh Bát quái, tức là Tám hiện tượng đó là: Càn: Trời, Khôn:
Đất, Chấn: Sấm chớp, Tốn: Gió, Khảm: Nước, Ly: Lửa, Cấn:
núi, Đoài: ao đầm. Từ Tám hiện tượng này vận chuyển mà
biến hóa vô cùng mới tạo lập ra vũ trụ và vạn hữu chúng
sinh.

Đây là một vấn đề vô cùng huyền bí, nằm trong phạm trù
Vũ trụ quan của triết học Đông phương … Từ xưa đến nay
nhiều Giáo chủ, nhiều Triết gia đã bàn luận giải đáp, nhưng
vẫn còn là vấn đề bí ẩn bất tận. Nên nếu chúng ta chấp nhận
những tín niệm tiên quyết nêu trên đây, thì mới có thể cùng
nhau tìm hiểu đề tài nầy.

Còn có nhiều trường phái căn cứ vào giác quan, hễ cái gì
mắt thấy tai nghe mới cho là có thật, nên họ cho rằng không
có Thượng Đế, mà Thượng Đế chỉ là một sản phẩm tưởng
tượng. Ngay con người họ cũng chẳng biết mình là ai, và
cũng cho con người là một sản phẩm tình cờ ngẫu nhiên của
vật chất, đời sống con người chỉ ngắn ngủi từ chiếc nôi đến
nấm mồ là hết. Vì đã không tin có Thượng Đế, thì mọi sự vật

3-CÓ THƯỢNG ĐẾ HAY KHÔNG?

đối với họ làm gì có ý nghĩa vĩnh cửu và trường tồn. Sự kiện
này Đức Hộ Pháp đã nói rằng:

“Mình cũng là một vật của toàn vạn vật trong vũ trụ,
nếu mình không biết Thượng Đế thì mình lại chẳng biết
mình…”
(Diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh Tây
ninh ngày 15 tháng 7 Nhâm thân / 16-08-1932).

Trong thực tế khi gạt bỏ Thượng Đế, thì cũng chính là
lúc con người tự phủ nhận chính mình. Còn với niềm tin có
Thượng Đế, thì sự sống con người sẽ có ý nghĩa cao cả, và
đời sống trở nên có mục đích, từ đó con người sẽ hưởng
được chân hạnh phúc.

Đối với niềm tin Thượng Đế thì tùy theo thời đại và địa
phương mà nhân loại tôn xưng Ngài bằng nhiều ngôn từ
khác nhau đó là: Jéhova, Brhama, Allah, Đức Chúa Trời,
Thượng Đế, Tạo hóa, Hóa công…

Các tài liệu sưu tập sau đây, cốt cho chúng ta suy lý cảm
nhận sự hiện hữu của Thượng Đế, và lắng nghe được những
huyền âm vi diệu của Ngài đang phát xuất trong lương tâm
của mỗi con người.

QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ THƯỢNG ĐẾ
TRONG CÁC TÔN GIÁO

Đối với bản thể và quyền năng của Thượng Đế thì bàng
bạc vô cùng, mỗi tôn giáo đều dựa trên những cơ sở khác
nhau để diễn tả một phần nào đó, hầu đáp ứng cho những
nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân loại, tùy theo đối
tượng, tùy theo địa phương và trình độ tiến hóa của con
người ở từng thời đại.

Ngay Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo không gọi đích
xác rằng Thượng Đế là Người tạo dựng ra vũ trụ vạn hữu,
nhưng Đức Thích Ca đã gọi cái sinh ra pháp giới chúng sanh

4 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

là Chân như, Đức Lão tử gọi là Đạo, Đức Khổng tử gọi là Lý
Thái cực, không phải các Ngài phủ nhận Thượng Đế, mà các
Ngài muốn thức tỉnh chúng sanh ở thời điểm đó, không nên
tôn thờ đa thần và ỷ lại vào thần quyền.

Vì theo tín niệm chung nhân loại trong thời đại của các
Ngài thường tin vào đa thần, hoặc nếu có tin tưởng vào
Thượng Đế thì cũng có một định kiến rằng Thượng Đế là
một người có quyền lực vạn năng, quyết định mọi sự một
cách độc đoán, nên các Ngài muốn giáo hóa cho con người
thời đó đừng ỷ lại vào thần quyền hay tin tưởng vào đa thần
một cách mê tín dị đoan, mà khuyên con người phải ăn ở
đúng với Thiên lý, Chân tâm, Phật tánh, đúng với lương tâm
và lòng trắc ẩn sẵn có nơi chính mình, như vậy có nghĩa là đã
phụng sự Thượng Đế và như thế mới hưởng được phước
lành, chứ không phải chỉ cầu khẩn suông nơi Thượng Đế hay
tin tưởng vào nhiều thần linh từ bên ngoài mà có được hạnh
phúc chân thật.

Đối với bản nguyên và quyền năng của Thượng Đế, trên
thế gian chưa có Đấng Giáo chủ nào giảng giải rõ ràng được
căn nguyên nguồn cội của Ngài, cũng như diễn tả được hình
thể của Ngài, vì Ngài là nguồn sống của vũ trụ vạn hữu, nên
hình thể của Ngài cũng có thể nói là hình thể của cả vũ trụ và
vạn hữu chúng sanh, nên không thể lấy một con người hay
một vật thể nào để tượng trưng cho Ngài được. Vì con người
chỉ là hột cát trong bãi sa mạc, là một phần tử cực kỳ nhỏ bé
so với nguồn sống bao la của đất trời, đời sống lại vô cùng
ngắn ngủi so với sự vĩnh hằng của Tạo hóa.

Chính các vì Giáo chủ là bậc Đại giác ngộ, nhưng cũng
không thể nào dùng văn tự và ngôn ngữ hữu hạn của con
người để giảng giải rõ ràng. Ngay như Đức Phật khi giảng
giải về Chân như, là cái tạo ra pháp giới chúng sanh, nhưng
Ngài cũng dùng những ngôn từ lơ lửng như: cũng có, cũng
không, không phải có, không phải không, cũng đồng, cũng
khác, không phải đồng, không phải khác… hoặc là những

5-CÓ THƯỢNG ĐẾ HAY KHÔNG?

điều ta biết như lá trong rừng, và cái ta nói ra được như nắm
lá trong tay này… (Theo Thủ Lăng Nghiêm).

Theo Đức Lão Tử thì Đạo tạo dựng ra vũ trụ, sanh hóa và
hàm dưỡng vạn linh, nhưng Ngài không biết gọi tên cái đó
bằng gì, nên đặt tên là Đạo, gượng gọi tên đó là lớn (Tự chi
viết Đạo cưỡng chi danh viết Đại), và khi Ngài nói về Đạo,
cũng nói rất là thận trọng và khiêm tốn, thường dùng cách
nói lơ lửng như: có lẽ (tượng), giống như (tự), hình như
(nhược), hoặc là (hoặc)… Ngài cũng xác nhận rằng Đạo cũng
như vũ trụ vô cùng huyền bí, không thể hiểu được và giảng
giải được, nên trong Đạo đức kinh Ngài đã nói rằng:

“Đạo khả đạo phi thường đạo” (Đạo đức kinh / Thiên
thượng).


Có nghĩa là cái Đạo mà đã diễn tả ra được bằng lời nói,
thì không phải là cái Đạo thường hằng bất biến. Vì theo Đức
Lão Tử cho Đạo là bản nguyên của vũ trụ, nó vô cùng huyền
bí cao siêu, không thể dùng lời nói mà diễn tả được. Chính
Ngài cũng không biết tên là gì nên gượng gọi Đạo mà thôi.

Còn đối với Nho giáo, các vấn đề huyền bí về vũ trụ và
nhân sinh, Đức Khổng tử chỉ đề cập đến trong khi sang định
kinh Dịch (Thiên đạo) và kinh Xuân thu (Thế đạo). Phần này
chỉ dành cho những đệ tử có kiến thức đặc biệt tự lãnh hội
lấy mà thôi, chứ Ngài không đem dạy rộng rãi cho mọi
người. (Theo Nho giáo của Trần Trọng Kim).

Đối với các vị Giáo chủ là những bậc nhận thiên mệnh
của Thượng Đế xuống thế gian để độ rỗi chúng sanh, mà các
Ngài không thể dùng ngôn ngữ của con người để giảng giải
rõ ràng các vấn đề huyền bí của Tạo hóa. Nên các Ngài đành
giữ im lặng, xa lìa văn tự, nhưng nếu không nói gì, thì làm
sao cứu độ chúng sanh, nên các Ngài phải tùy thời, tùy trình
độ hiểu biết của nhân loại mỗi nơi, mỗi thời kỳ mà nói,
nhưng nói một cách lơ lửng như Đức Phật, hay rất khiêm tốn
như Đức Lão tử hoặc chỉ nói đến phần thể dụng thiết thực

6 THƯỢNG ĐẾ ĐANG Ở ĐÂU?

như Đức Khổng tử; cốt để gợi ý cho con người lắng nghe
tiếng gọi của Thượng Đế từ nơi tâm linh của mình mà thôi.
Quan niệm về Thượng Đế trong các tôn giáo, cũng như
ngoài nhân gian, tuy có khác nhau, nhưng xét cho cùng, thì
đều có một mục đích là đả phá những mê tín của chúng sanh
trong một thời điểm, và ở một địa phương nào đó; nên những
quan niệm đó cũng có giá trị giới hạn nhứt định, thích hợp
với từng địa phương và từng thời đại, nếu ta nhắm vào
những giáo lý cổ xưa của một thời đại nào đó tại một địa
phương này, để kích bát và đả phá những giáo lý đã được
phổ cập ở một địa phương khác, ở một một thời đại khác, đó
là điều không thức thời. Cũng như dùng một quyền lực nào
đó, để bắt buộc mọi người ở mọi nơi phải nghe theo những
giáo lý đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự tiến hóa của
con người, thì đó là một sự cuồng tín nguy hiểm, cũng như vì
tham quyền cố vị cố duy trì lại những giáo lý cũ kỹ để củng
cố quyền lực, ngăn cản không cho các giáo lý mới mẻ tiến bộ
lưu hành, thì cũng là một điều tai hại, trái với quan niệm của
Nho gia là:

“Muôn vật cùng sinh trưởng mà không xâm hại lẫn
nhau, các đạo cùng lưu hành mà không phản bội lẫn nhau
(Vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại, đạo lý tịnh hành nhi bất
tương bội/Trung dung).


Xã hội loài người hiện đang tồn tại, thì niềm tin vào
Thượng Đế cũng đang tồn tại, nhưng có từng thứ bậc là điều
cần thiết, người tin vào Thượng Đế hiện hữu khắp mọi nơi,
không nên cho người tin Thượng Đế ngự trên Trời cao, là
sai, vì đó cũng là một quan điểm đúng, nhưng đúng với
những người mới có niềm tin, và niềm tin này đang trên con
đường đi đến chân lý tuyệt đối.

Còn các tôn giáo không dùng danh xưng Thượng Đế để
chỉ Đấng tạo lập vũ trụ, mà họ đã tin rằng có “Một Cái Gì

7-CÓ THƯỢNG ĐẾ HAY KHÔNG?

Đó” đã vận hành bằng “Một Cách Nào Đó” để tạo ra vạn
hữu chúng sanh như Phật giáo gọi là Chân như, Lão giáo gọi
là Đạo và Nho giáo gọi là Thái cực, cũng không phải là một
quan niệm vô thần, mà họ cũng thừa nhận Thượng Đế dưới
một danh xưng khác mà thôi. Nghĩa là niềm tin này không
phủ nhận niềm tin khác, mà chỉ là sự hoàn mãn cho niềm tin
khác.