Từ những thí dụ trên, chúng ta nhận thấy vô ngã bao gồm luôn vô thường, vì đã vô ngã dĩ nhiên là vô thường, và đã vô thường thì dĩ nhiên là vô ngã; chúng ta có thể tạm phân biệt vô ngã là đứng về khôg gian, thể tánh mà nói, còn vô thường là đứng về thời gian mà luận, nhưng muốn giản dị, chúng ta có thể viết theo công thức toán học: Vô Ngã = Vô Thường.
Xem như vậy thì tuy nói là Tam Pháp Ấn, nhưng đúc kết lại thì chỉ một điều kiện cũng đủ: đó là vô ngã, vì vô ngã bao gồm luôn vô thường và khổ. Chúng ta có thể nói vô ngã là chỗ lập cước căn bản của Phật-giáo, và lìa vô ngã thì không còn là Phật-giáo.

Đức Phật đưa ra lý vô ngã là để đối nghịch với thuyết hữu ngã của Bà-la-Môn giáo đang thịnh hành lúc bấy giờ. Bà-la-Môn giáo chủ trương có một nguyên lý đầu tiên sáng lập ra vũ trụ gọi là Brahman hay Đại Ngã; nguyên lý này trường tồn bất biến, tuyệt đối, vô hình vô tướng, nhưng được biểu hiện nhân-cách-hóa bằng một vị Thượng-Đế Tối Cao gọi là Brahma, toàn trí toàn năng. Brahma sáng tạo ra vũ trụ vạn vật. Trong mỗi người chúng ta đều có một phần rất nhỏ của Đại Ngã tiềm ẩn gọi là Tiểu Ngã (Atman). Bản chất của Đại Ngã và Tiểu Ngã là một, đồng tính chất, chỉ khác nhau ở sự thể hiện bên ngoài mà thôi. Ngã là một thực thể vĩnh cửu bất biến và không bao giờ hòa hợp với một vật gì khác ngoài chính nó. Con người muốn giải thoát phải làm sao cho Tiểu Ngã nhập một với Đại Ngã, bằng những phương pháp tu luyện, thiền định, suy gẫm, để thấu hiểu những vấn đề siêu hình. Trong khi chờ đợi sự thăng hóa cùng tột đó, Tiểu Ngã bị luân hồi, bỏ xác này sang xác khác, khi lên khi xuống tùy theo nghiệp lực, hành động thiện hay ác. Mọi việc làm thiện của chúng ta gây ra một sức mạnh lôi kéo chúng ta hướng về đường lành và mọi việc ác gây ra một sức mạnh lôi cuốn chúng ta hướng về nẻo dữ. Sức lôi cuốn đó gọi là nghiệp lực. Tiểu Ngã được ví như một khách lữ hành rời quán trọ này sang quán khác, bỏ quần áo cũ để mặc quần áo mới, hoặc ví như tài tử sân khấu bỏ vai tuồng này sắm vai trò khác. Tiểu Ngã cứ trôi lăn mãi trong vòng luân hồi, lãnh hội những bài học quý giá, thâu nhập những kinh nghiệm tốt lành, cho đế khi nào nhập một với Đại Ngã thì được giải thoát.

Phật-giáo chấp nhận thuyết luân hồi, nhưng cực lực chống đối thuyết hữu ngã (có linh hồn bất diệt); Phật-giáo chủ trương vô ngã. Con người hay cái ta chỉ là một bộ máy sắc tâm (appareil physicopsychique) do ngũ uẩn hợp thành, các duyên hòa hợp mà có, đủ điều kiện thì sinh, hết duyên thì diệt, trước có sau không, luôn luôn thay đổi biến chuyển, vô thường, vậy vô ngã. Đến đây một câu hỏi tự nhiên được đặt ra: “Nếu chấp nhận luân hồi và vô ngã thì cái gì luân hồi, cái gì liên lạc giữa hai đời sống nối tiếp nhau?”.

Một số Phật-tử cho rằng đó là thức, một trong năm uẩn cấu tạo nên con người. Đức Phật bác bỏ và dạy rằng: “Người nghe ta nói ở đâu rằng thức thường còn và luân hồi từ kiếp này qua kiếp khác? Thức được phát sinh khi căn tiếp xúc với trần, và trái lại thức biến đi khi một trong hai điều kiện (căn hoặc trần) bị thiếu. Thức tùy thuộc căn và trần, vậy nó không thể hiện hữu và tồn tại một cách độc lập được”.

Phật còn dạy trong kinh A-Hàm: “Có nghiệp báo nhưng không có người tạo; khi ngũ uẩn này diệt, ngũ uẩn khác tương tục sinh khởi”. Tất cả mọi vật đều biến chuyển như giòng thá đổ, không phút nào ngừng; giòng thác tiếp tục chảy, cuốn theo mọi vật, những giọt nước được tạo thành, trồi lên ngụp xuống thành những đợt sóng, đợt này xô đẩy đợt kia, tan rồi lại hợp, chảy mau hay chậm tùy theo luồng gió, chiều dốc của đất, tùy theo những chướng ngại vật mà giòng nước cuốn quanh. Một làn sóng biến đi tạo điều kiện cho một làn sóng khác xuất hiện kế tiếp nhau, nhân thành quả, quả trở lại thành nhân. Con người cũng vậy, do nghiệp lực đưa đẩy mà luân hồi trong ba cõi sáu đường, thân này chết đi tạo điều kiện cho thân xác xuất hiện tiếp nối.

Nếu vô ngã thì cái gì luân hồi? Trong Vissuddhi Magga, Ngài Buddhaghosa viết: Có nghiệp, nhưng không có kẻ tạo; có báo, nhưng không có kẻ thọ; chỉ có giòng nghiệp báo triền miên. Ngài viết thêm: Nghiệp báo là một luật tự hành, tự ứng, không cần có sự can thiệp của một ngoại lực nào, không cần phải dựa vào vật gì. Cái tiềm lực báo ứng nằm ngay trong nghiệp, hễ có nhân là có quả, và nhân nào quả nấy. Trong ngũ uẩn tạo ra con người thì hành uẩn tạo nghiệp, thọ uẩn lãnh chịu những báo ứng của nghiệp; ngoài những uẩn ấy, ngoài những tâm trạng ấy, không có kẻ nào gieo, người nào gặt hết.

Chúng ta có thể hiểu là chỉ có một sự lưu chuyển nghiệp lực của cá thể trước để tạo thành một cá thể sau, chứ không có sự lưu chuyển thức hay ngã được. Chỉ có sự lưu chuyển ảnh hưởng của mọi hành động tạo tác chứ không có ngã hay thức bị luân hồi.
Trong giòng thác, một giọt nước tan đi, nhập làm một với biển cả, rồi nhờ nhiều điều kiện: gió, bụi, sức đẩy, trọng lực,… cấu tạo một giọt nước khác được tạo ra. Con người cũng vậy, khi chết thì ngũ uẩn tan rã, rồi do nghiệp lực thúc đẩy, các duyên tụ họp ngũ uẩn hoà hợp để tạo thành một người khác. Người sau này có phải là người trước không? Xin đáp: Không và có. Không, vì người sau có tên họ khác, mầu da khác, tiếng nói khác…. Có, vì người sau có nghiệp lực của người trước mà có; nếu không có người trước thì không có người sau. Nhưng điều quan trọng cần nhớ rõ là nghiệp lực không hình không tướng, chuyển từ kiếp trước sang kiếp sau theo một sức hút tự nhiên, không do một Đấng nào điều khiển, không một ngã trường tồn.

Phật-giáo căn cứ vào tâm lý mà giảng thuyết vô ngã, phân tích tâm thành những hiện tượng phức tạp là Tâm Vương và Tâm Sở, rồi quy định các luật nhân duyên sinh khởi của chúng. Tuy Phật-giáo chia ra làm nhiều bộ phái, có phái chủ trương ngã không pháp hữu, có phái chủ trương ngã pháp câu không, tất cả đều đồng ý về vấn đề vô ngã. Về sau, có một số rất ít bộ phái Phật-giáo chủ trương hữu ngã để giải thích luân hồi, nhưng không được mấy người theo và không tồn tại được bao năm.
Để giải đáp câu hỏi: “Cái gì làm mối liên lạc giữa hai đời sống?” Phật chỉ trả lời: “Nghiệp”, và không qui định và giải thích rõ ràng. Các bộ phái Phật-giáo sau này cố gắng giải thích và chia ra thành 2 khuynh hướng:

1) Phái Cơ Giới Luận lấy thí dụ lửa từ cây nhang nầy bắt cháy sang cây nhang khác, liên tục vô cùng; khi cây nhang hết thì lửa cũng không còn; lửa không phải là một thực tại bất biến, nó tàn lụi theo cây nhang và di chuyển cái sức đốt cháy sang cây nhang khác. Đây là một sự di chuyển ảnh hưởng chứ không có di chuyển vật thể.

2) Phái Độc-Tử-Bộ thành lập một thứ ngã gọi là “không phải uẩn cũng không phải rời uẩn” (phi tức uẩn phi ly uẩn ngã). Thứ ngã đặc biệt này được phái Độc-Tử-Bộ gọi bằng danh từ Thắng Nghĩa Ngã. Cái ngã này, không phải là ngũ uẩn đã đành, mà cũng không phải do sự tổ hợp của ngũ uẩn, nhưng lìa bỏ ngũ uẩn thì không tìm ra nó. Sự liên hệ giữa uẩn và ngã giống như sự liên hệ giữa nước và sóng, nước không phải là sóng, nhưng lìa nước không tìm ra sóng, hoặc sự liên hệ giữa nhiên liệu và lửa, nhiên liệu không phải là lửa, nhưng lìa nhiên liệu tìm lửa không ra.

Độc-Tử-Bộ cho rằng bản thể của Ngã là bất khả thuyết, không thể nói ra được, người tu hành chỉ do công phu tự chứng mà thôi. Phái này bị các nhà Phật-học đả kích kịch liệt, cho rằng đó là chủ trương của những người ngoại đạo báo vào Phật-giáo, nhưng chúng ta cũng phải thành thực nhìn nhận cái ngã phi tức uẩn phi ly uẩn của Độc-Tử-Bộ là hạt giống, là tư tưởng làm phát sinh ra thuyết A-lại-da-thức của Duy-thức-học sau này, và Độc-Tử-Bộ đã cố gắng vượt khỏi hai thái cực thiên chấp là đoạn kiến và thường kiến.

Đến đây, chúng ta đã thấy rõ sự khác biệt căn bản giữa hữu ngã của Bà-la-môn giáo và vô ngã của Phật-giáo. Bà-la-môn giáo quan niệm hữu ngã (Đại Ngã và Tiểu Ngã) thường còn bất biến, và y vào đó để phân chia giai cấp. Để đả phá quan niệm sai lầm đó, để san bằng mọi phân cách giai cấp và chủng tộc, Đức Phật đưa ra thuyết vô ngã, chủ trương không có cáo ngã nào là thường còn bất biến cả. Nhưng đối với những đệ tử đã thâm nhập lý vô ngã rồi, thì sau này Đức Phật lại dạy cho họ cái Chơn Ngã tuyệt đối, một trong tứ đức Niết-Bàn, cái Chơn Ngã mà khi xuất thế, Ngài đã nói ra trong câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Ngã đây là ChơnNgã, Chơn Lý tuyệt đối, chứ không phải cái ta hẹp hòi, ích kỹ mà nhiều người đã lầm tưởng.

Lý thuyết vô ngã đã dạy cho chúng ta nhận biết bộ mặt thật của mọi sự mọi vật, đã vạch cho chúng ta con đường cân chánh phải theo, đã chỉ cho chúng ta thái độ đúng đắn phải có; lý thuyết vô ngã đã mở mắt cho chúng ta trước sự thật phũ phàng, đã phân tích dùm chúng ta những nguyên nhân của những căn bệnh tâm của con người và chỉ bày những phương thuốc để chửa những bệnh đó. Trong những bài sau, chúng ta sẽ bàn đến những căn bệnh của thời đại như: sợ hãi, ích kỷ, chiến tranh, giáo dục…. mà lý vô ngã sẽ giúp chúng ta giải quyết một cách dễ dàng, nhẹ nhàng và hợp tình hợp lý.
STTT