+ Trả lời Chủ đề
Trang 9 của 14 Đầu tiênĐầu tiên ... 7 8 9 10 11 ... CuốiCuối
Kết quả 81 đến 90 của 137

Chủ đề: Từ cuộc đời... đến TOTHA

  1. #81
    Totha_Nam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Hẳn quí vị chắc có một lần nào đó suy tư*
    Mình đến đây để làm gì?
    Và sau khi bỏ báo thân này mình sẽ đi về đâu?

    Xin tham khảo



    Thế Giới Không Như Mình Thấy (20/1/2013) (Kỳ 2) - Phan Thị Bích Hằng

    http://www.phatam.com/video/phan-thi...51fd555a6.html

    Phỏng vấn người cõi âm:

    http://chuaphuclam.com/index.php?/xa...gi-coi-am.html

    Luận thêm về bài phỏng vấn người cõi âm:

    http://chuaphuclam.com/index.php?/xa...gi-coi-am.html

  2. #82
    Totha_Nam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Sau khi đến ToTha
    Sau khi biết được Phật Pháp
    Sau một thời gian tu*- thực tập*- hành trì*- buông bỏ
    Thì
    tất cả Quí Vị sẽ có được thân tướng đẹp đẻ trang nghiêm như hình ví dụ sau





  3. #83
    Totha_Nam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Hẳn Quí Vị cũng đã đôi lần thắc mắc tại sao tai nạn cứ xảy ra trên cùng một con đường hay một địa điểm*

    Xin Quí vị đi tìm câu trả lời qua lời chia sẻ


  4. #84
    Totha_Nam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Sự tích tám Phật Lực
    (Đây là một trong tám Phật Lực quá quá tuyệt xin chia sẽ để tất cả Quí Vị cùng tụ tập)

    Dạ xoa Àlavaka thuộc bộ hạ của vua trời Kuvera (một trong Tứ đại thiên vương cai trị chúng dạ xoa ở về phương Bắc). Dạ xoa Àlavaka rất hung ác, tàn bạo, ăn thịt người, lại có nhiều phép mầu cực kỳ nguy hiểm hơn cả Ác Ma Thiên.
    Ðức Phật cảm thắng dạ xoa Àlavaka trong trường hợp đặc biệt, dạ xoa Àlavaka chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

    ÐỨC PHẬT CẢM THẮNG DẠ XOA ÀLAVAKA
    Ngày hôm ấy vào canh ba, lúc chưa hừng đông, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định ở Gandhakuti chùa Jetavana. Xả định, Ngài quán xét bằng Phật nhãn xem chúng sinh nào có duyên lành nên tế độ. Ngài nhìn thấy Thái tử Àlavakakumàra có duyên lành, kiếp hiện tại này chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai (Anàgàmi) và dạ xoa Àlavakayakkha khi nghe giải đáp những câu hỏi xong cũng sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu (Sotàpanna), cùng với 84.000 chúng sinh chư thiên, Phạm thiên chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả tuỳ theo pháp hạnh ba la mật của mình.

    TÁM CÂU HỎI
    Dạ xoa Àlavaka vào lấy tấm biển vàng có ghi 8 câu hỏi ra liền hỏi Ðức Phật rằng: - Này Sa môn Gotama
    1- Pháp nào là của cải hài lòng, cao quý nhất của chúng sinh trong đời?
    2- Pháp nào khi chúng sinh đã thực hành rồi, sẽ cho quả an lạc?
    3- Vị nào là vị cao thượng hơn các vị khác?
    4- Chư bậc Thiện trí nói: chúng sinh sống như thế nào mới được gọi là sống cao thượng nhất?

    Bằng giọng phạm âm ngọt ngào, với tâm từ vô lượng, tuần tự Ðức Phật trả lời:
    - Này Àlavaka,
    1- Ðức tin là của cải hài lòng, cao quý nhất của chúng sinh trong đời.
    2- Thiện pháp khi chúng sinh đã thực hành rồi, sẽ cho quả an lạc.
    3- Pháp chân thật là vị cao thượng hơn các vị khác.
    4- Chư bậc Thiện trí nói rằng: "chúng sinh sống bằng Trí tuệ mới được gọi là đời sống cao thượng nhất".

  5. #85
    Totha_Nam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    TÁM CÂU HỎI*(tiếp theo)

    Khi nghe Ðức Phật trả lời đúng theo câu hỏi, nhắc cho y hồi tưởng lại được, nên y vô cùng hoan hỷ, phát sanh hỷ lạc lạ thường, phát sanh đức tin trong sạch, lòng tôn kính nơi Ðức Phật, đồng thời diệt tâm sân hận ngay, bèn đổi cách xưng hô.
    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, kính xin Ngài mở lòng từ bi đối với con, giải đáp cho con 4 câu hỏi nữa.
    5- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể vượt qua bốn vùng nước xoáy?
    6- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi?
    7- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể giải thoát khổ tử sanh luân hồi?
    8- Bằng pháp nào, chúng sinh mới trở nên hoàn toàn trong sạch?

    Ðức Phật giải đáp:
    - Này Àlavaka, con hãy lắng nghe:
    5- Nhờ Ðức tin chúng sinh vượt qua bốn vùng nước xoáy.
    6- Nhờ Tâm không dễ duôi, có Chánh niệm chúng sinh vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi.
    7- Nhờ Tâm tinh tấn chúng sinh giải thoát khổ tử sanh luân hồi.
    8- Nhờ Trí tuệ chúng sinh mới trở nên hoàn toàn trong sạch.

  6. #86
    Totha_Lien
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Cùng nhau tu học đúng theo Chánh Pháp


    Chánh Tri Kiến và Tư Duy

    Khi đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, hàng đệ tử Thanh văn rất lo iắng, rằng sau khi đức Phật nhập diệt rồi thì sẽ lấy ai làm thầy đặng mà nương tựa, đặng mà giải thoát?. Đức Thế Tôn biết và Ngài đã an ủi họ: "Này các Tỷ-kheo, thế gian vô thường, có sanh ắt phải có diệt, các ông hãy thực hành đúng giới Luật Như lai đã dạy cho các ông lâu nay, đó chính là đức Thầy cao cả của các ông, nếu Ta có ở đời lâu hơn nữa cũng không khác.Hãy tinh tấn an trú trong chánh niệm để giải thoát mình.."

    Mặc dầu đức Phật đã căn dặn như thế, nhưng khi Ngài nhập diệt chưa bao lâu thì đã có nhiều người không hiểu, thậm chí còn hiểu sai lầm về Pháp mà Ngài đã truyền dạy, ngay cả một vị sư già thời ấy cũng nằm trong số đó.

    Một sáng kia, Tôn giả A-nan-đa đắp y cầm bình bát đi khất thực, khi đi ngang qua một tịnh xá thì gặp chú tiểu đang ngâm nga câu kệ: "Nhơn sanh bách tuế, bất kiến thủy lão hạc, bất như sanh nhất nhật, đắc kiến thủy", nghĩa là: "Người sống trăm năm, không thấy con hạc già, chẳng bằng sống một ngày, mà thấy được con hạc già". Tôn giả A-nan-đa lấy làm thắc mắc, liền quay lại hỏi chú tiểu:
    - Này Sa-di, ai dạy chú câu đó?
    - Thưa trưởng lão, Thầy con dạy như thế. Thầy con còn nói đó là lời dạy của đức Phật nên bắt con phải học thuộc lòng câu ấy.

    Tôn gỉa A-nan-đa phân vân quá, lại nghĩ: Mình là vị cao tăng hầu cận bên đức Thế Tôn, Ngài dạy điều gì mình đều ghi nhớ rất kỹ nhưng chưa hề nghe câu này! Tại sao Thầy kia lại dạy cho đệ tử câu đó? Ngài cố suy nghĩ và chợt nhớ ra trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy như thế này: "Nhược nhơn thọ bách tuế, bất kiến sanh diệt pháp, bất như sanh nhất nhật, đắc kiến sanh diệt pháp". Nghĩa là: "Nếu người sống trăm tuổi mà không thấy pháp vô thường sanh diệt[*]. Chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy được pháp sanh diệt vô thường".
    [*] Năm uẩn sanh diệt tức là các pháp do nhân duyên hòa hợp. không thường trú.

    Nghiên cứu giáo lý của đức Phật, chúng ta đều biết rằng Luật biến chuyển vô thường của vũ trụ là một chân lý, là một sự thật. Đạo Phật gọi đó là Chân như, là bản thể của sự vật. Nếu ai không hiểu đúng sự vô thường của vạn vật thì họ sẽ chấp trước cái tướng, rồi sinh ra đắm đuối say mê cái ngã nên mới sinh phiền trược gây khổ đau. Ngược lại, nếu hiểu được luật vô thường của sự vật thì trí mới sáng, tâm mới trong, khi ấy mới mong trừ được nhũng điều vô minh để sống cuộc đời tự tại.

    Lời đức Phật dạy có ý nghĩa sâu xa như thế, nhưng vị sư già đã dạy cho đệ tử như vậy. Tôn giả A-nan-đa nhân nghe chú tiểu đọc đã hiểu rằng: Sự hiểu lầm nguy hại đã tồn tại qua bao nhiêu năm tháng như thế này thật đáng tiếc.

    Đức Phật dạy:
    "Yoca vassatam jive
    Apassam udayavyayam
    Ekaham jivitam seyya
    Passato udayavyayam"


    Nghĩa là :
    "Ai sống một trăm năm
    Không thấy pháp sanh diệt,
    Tốt hơn sống một ngày
    Thấy được pháp sanh diệt"-
    (PC 113)


    Tôn giả A-nan-đa đã sửa lại và bảo chú tiểu học thuộc lòng câu Pháp Cú này đúng như lời đức Phật dạy: "Nhược nhơn thọ bạch tuế, bất kiến sanh diệt pháp, bất như sanh nhất nhật, đắc kiến sanh diệt pháp"[*]. Chú tiểu đã học theo lời Tôn giả A-nan-đa chỉ.[*] Pháp cú câu 113 do ngài Liễu Tham dịch từ Pàli ra Hán văn. Hòa thượng Thiện Siêu chuyển dịch từ Hán văn sang Việt văn.

    Đến khi về tinh xá, vị Bổn sư nghe chú tiểu đọc câu kinh mà Tôn giả A-nan-đa đã sửa lại cho, vị Bổn sư của chú nghe lạ tai quá bèn hỏi chú tiểu:
    - Này con, ai chỉ cho con đọc như thế? Ta đã chỉ cho con đọc như thế này tại sao con đọc như thế kia?

    Chú tiểu trả lời:
    - Thưa Thầy, đó là Trưởng lão A-nan-đa dạy con đọc như vậy.
    Vị Bổn sư của chú tiểu thốt lên rằng:
    - Ôi chao, Trưởng lão A-nan-đa bây giờ già quá và lú lẫn rồi, chớ biết chi nữa mà con nghe ổng, khổ chưa!

    Chúng ta biết rằng Tôn giả A-nan-đa có tiếng là đa văn đệ nhất. Bao nhiêu lời dạy của đức Thế Tôn, Tôn giả đều ghi nhớ hết. Tôn giả được ví như là biển cả chứa đựng tất cả lời dạy của đức Thế Tôn, thế mà bây giờ vị sư già đó cho rằng: Tôn giả già rồi lú lẫn! Than ôi, thật là đại hoạ cho Phật pháp! Cách đức Phật nhập diệt không bao lâu năm tháng mà vị sư già kia đã diễn đạt sai ý của Phật thì chắc trên thế gian này cho đến nay đã có không biết bao nhiêu người hiểu sai lời dạy của đức Thế Tôn. Tôi đoán chắc là nhiều lắm.

    Đức Phật dạy: "Giáo lý mà Như Lai đã chỉ ví như chiếc bè qua sông, khi qua thì không được vác bè đi theo". Qua sông ở đây là chỉ cho giải thoát và giác ngộ. Giải thoát cho bản thân mình và giác ngộ cho mọi loài. Đừng theo vết sai của vị sư già khiến cho hàng hậu học hiểu sai lời Phật dạy, nên chư Tổ đã bằng đủ mọi cách dạy dỗ kinh luật luận cho lớp lớp Tăng Ni và Phật tử từ đời này qua đời khác để khỏi bị thất truyền.

    Lúc còn tại thế, Đức Phật thường luôn nhắc nhở các đệ tử nhằm tránh bị lôi cuốn vào “Tà kiến biện thông”, “Sáo ngữ biên kiến” và “Huyển ngữ nghi biện” gây nên những mê lầm cùng những hệ lụy đáng tiếc trong việc Tri kiến và Tư duy đúng đắn để giúp khai mở tuệ giác giải thoát. Bởi thế, Đức Phật đã từng nhắc nhở:

    [Này các Kàlàmas, chớ để bị dẫn dắt bởi những lời đồn hay bởi truyền thống, chớ để bị dẫn dắt bởi những lời người khác nói, chớ để bị dẫn dắt bởi những gì ghi lại trong Kinh điển, bởi lý luận hay suy diễn, bởi xét đoán bề ngoài, bởi tán thành một lý thuyết nào đó, bởi lòng tôn trọng "vị Sa môn này là Thầy ta…" Tăng Chi Bộ Tập I].

    Đức Phật rất bình đẳng cho phép mọi người xét đoán cả ngài (vị Sa môn Cồ Đàm), mong sao giúp cho mọi người luôn hiểu đúng giáo pháp chân chính mà ngài cần nói với chúng sanh rằng : “Như Lai không nói gì khác ngoài Khổ và Diệt Khổ”

    "Theo Như Lai, Tin Như Lai, Kính nể Như Lai,...Hiểu sai pháp Như Lai chính là phỉ báng Như Lai - Kinh A Hàm"

    Do đó, nếu hiểu sai chánh pháp do : trí tuệ kém , không tinh tấn tri kiến và tư duy đúng, mê chấp vào huyển ngữ nghị biện, bị mê hoặc lôi kéo bởi tà kiến biện thông cùng đám đông kích hoạt,..Hiểu sai chánh pháp -> thực hành sai con đường giải thoát -> sẽ không được giải thoát -> sanh tâm hoài nghi, đồng thời bị người ngoại đạo cười chê, phỉ báng là điều không tránh khỏi : Đạo sư các người đã từng dạy là ly sắc tướng để được giải thoát, thế thì hãy tự đối chiếu lại thực tế diễn ra, đã phơi bày tính mâu thuẩn quá rõ ràng, cụ thể là việc hành đạo thờ cúng cầu kỳ, lễ hội phức tạp, tôn tạo các pho tượng, dâng sở cung thỉnh chẳng khác nào như đấng thần linh, Đại Ngã,..thế mà trong giáo pháp lại cho rằng "Chư Pháp là Vô Ngã", phủ định sự hiện hữu của linh hồn bất diệt, đấng toàn năng,...đúng là nói một đường làm một ngã... Với người thiện tâm trí giả tu học theo đúng giáo pháp nguyên thủy của Đức Phật đã truyền dạy ta nhận thấy (tri kiến và tư duy) ra điều gì? Rõ ràng đúng đúng như sự nhận định và xét đoán của người ngoại đạo, rõ ràng nếu hiểu sai -> hành sai giáo pháp là chúng ta đã phỉ báng Như Lai, bởi vì Ngài đã từng nói “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Nay còn có mấy ai nhận ra đúng đắn chân lý thiết thực nầy?.

    Lúc còn tại thế, Đức Phật có nói với ngài Ca Diếp rằng : [“ Nầy Ca-Diếp! Sau khi Như-Lai vào Niết-bàn bảy trăm năm, ma Ba- Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại chánh pháp. Ví như thợ săn thân mặc pháp-y, cũng vậy, ma-vương Ba-tuần giả hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba-Tắc, Ưu- Bà- Di. Nó cũng hoá làm thân Tư-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La- Hán và hoá làm hình Phật. Ma-Vương đem thân hữu lậu hoá làm thân vô-lậu để làm hư hại chánh pháp…”- Kinh Đại Bát Niết Bàn]

    Do đó, thời mạt pháp nay tính ra đã hơn 2500 năm trôi qua, Phật giáo bao phen suy hóa (bắt đầu ở Ấn độ vào thế kỷ thứ 6, Trung quốc cuối thế kỷ thứ 7, Việt Nam cuối thế kỷ thư 10,…), kinh điển đã hơn 7 lần kết tập lại (ngay sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn chỉ có vài tháng thôi mà trong đoàn thể đã xãy ra sự bất hòa về giáo pháp tu tập, nên ngài Ca Diếp đã tập hợp lại các A La Hán để cùng nhau thống nhất lại giáo pháp, đây là lần kết tập thứ nhất,…mãi không bao lâu – khoảng vài chục năm sau – cũng lại nhận thấy xuất hiện sự dị biệt trong sự truyền giảng giáo pháp, nên vua Kalasoka đã bảo trợ kinh phí cho kết tập lại lần thứ 2,…). Chợt nhớ lại lời dạy xưa kia trong giáo pháp Bát Chánh Đao của Đức Phật, hai con đường tiên khởi giúp cho mọi người cùng hằng tâm nhằm tránh khỏi mê lầm nằm ở 2 điều cốt lõi, đó là Chánh Tri Kiến và Chánh Tư duy (điều mà Thầy đã thường xuyên nhắc nhở mọi người rất nhiều lần ở các khóa học TOTHA), hầu như đa số đều chạy theo hình thức bề ngoài của pháp, mà quên hẳn việc sử dụng trí tuệ của chính mình để mà suy xét (qui Thức bất y Trí) cho tường tận…nên rất dễ bị cuốn theo : tà ngữ, huyển ngữ, sáo ngữ,..của đạo sư nầy nọ (Này các Kàlàmas..chớ để bị dẫn dắt…bởi vị Sa môn…), kinh Phật biến tướng (Này Ca Diếp…700 năm sau ma Ba- Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại chánh pháp…cũng hoá làm thân Tư-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La- Hán và hoá làm hình Phật..)

  7. #87
    Totha_Lien
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Giáo lý của đức Phật trong 49 năm thuyết pháp truyền lại cho chúng sinh thật vô cùng thậm thâm vi diệu. Ngày nay các nhà khoa học và xã hội học khi nghiên cứu kinh Phật chừng nào họ càng thán phục chừng ấy, thế mà thật đáng tiếc, đã có những người từng học giáo lý mà không hiểu đúng lời Phật dạy! Khi đã không hiểu đúng như sự vật là vô thường, vô ngã thì chính lòng họ đã hướng dẫn đời sống họ trở nên mê mờ tối tăm, không những không đem lại lợi ích cho mình mà còn không đem đến lợi ích cho bao nhiêu chúng sinh khác. Nếu chúng ta hiểu đúng giáo lý của đức Phật thì sẽ đem đến lợi ích, không hiểu đúng giáo lý của đức Phật thì sẽ không lợi ích mà lại còn làm tổn thương hoài bão lớn lao của chư Phật, rằng chư Phật ra đời là vì lợi ích cho chúng sinh. Vì vậy những ai, dù xuất gia hay tại gia, đã là đệ tử của Phật thì phải cố gắng học và hiểu cho đúng giáo lý của đức Phật hầu lấy đó làm một phương thuốc hay, hầu đối trị căn bịnh tham, sân, si, ngã mạn và vô minh tối tăm, để cuộc đời mình được thăng hoa, như hoa sen vượt lên khỏi bùn, toả hương thơm ngát giữa trần đời ô trược. Vậy thì chúng ta hãy cùng nhau vận dụng trí tuệ của mình một cách sáng suốt, cùng Tư Duy một cách đúng đắn nội dung của 8 pháp thoại sau nhằm rút ra nhận thức đúng đắn (Chánh Tri Kiến) trên con đường tu học theo đúng Chánh Pháp mà Như Lai đã dạy:

    Vấn :
    1- Pháp nào là của cải hài lòng, cao quý nhất của chúng sinh trong đời?

    Đáp :
    1- Ðức tin là của cải hài lòng, cao quý nhất của chúng sinh trong đời.

    Chánh Tư Duy :
    Đức tin không có đối tượng (Chánh/Tà) liệu có mang đến của cải hài lòng, cao quý nhất của chúng sinh trong đời ?

    Vấn :
    2- Pháp nào khi chúng sinh đã thực hành rồi, sẽ cho quả an lạc?

    Đáp :
    2-Thiện pháp khi chúng sinh đã thực hành rồi, sẽ cho quả an lạc.

    Chánh Tư Duy :
    Thiện pháp khi chúng sinh đã thực hành rồi, sẽ cho quả an lạc.

    Vấn :
    3- Vị nào là vị cao thượng hơn các vị khác?

    Đáp :
    3- Pháp chân thật là vị cao thượng hơn các vị khác.

    Chánh Tư Duy :
    Thử đối chiếu : “…thị chư pháp vô tướng…cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa…thị vô thượng chú…thị vô đẳng đẳng chú – Bát nhã Tâm Kinh”

    Và :
    "Pháp thí, thắng mọi thí,
    Pháp vị, thắng mọi vị,
    Pháp hỷ, thắng mọi hỷ,
    Ái diệt, thắng mọi khổ."
    (Pháp Cú 354)

    Vấn :
    4- Chư bậc Thiện trí nói: chúng sinh sống như thế nào mới được gọi là sống cao thượng nhất?

    Đáp :
    3- Chư bậc Thiện trí nói rằng: "chúng sinh sống bằng Trí tuệ mới được gọi là đời sống cao thượng nhất".

    Chánh Tư Duy :
    Trí tuệ sống cho việc : chế tạo vũ khí hạt nhân, thống trị, tuyên truyền tà thuyết,..có được gọi là đời sống cao thượng không ? Hay là :

    “Phải thường xuyên quán chiếu tâm mình để thấy rằng, suốt ngày nó chỉ một mực lo tham cầu và tạo tội lỗi, không biết nhàm chán. Phải biết an vui trong nếp sống đạm bạc, biết đủ, để có thể hoàn thành sự nghiệp trí tuệ… Dù phải sống ở trong thế gian cũng không bao giờ để cho năm thứ dục vọng của thế gian làm chủ mình. Dù là người xuất gia hay tại gia, không bao giờ để bị nhiễm ô bởi các thứ dục lạc của thế gian. Nhất mực phải sống cuộc đời cao thượng – Kinh Bát Đại Nhân Giác).

    Vấn :
    4- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể vượt qua bốn vùng nước xoáy?

    Đáp :
    5- Nhờ Ðức tin chúng sinh vượt qua bốn vùng nước xoáy.

    Chánh Tư Duy :
    Đức tin không có đối tượng (Chánh/Tà) liệu có vượt qua bốn vùng nước xoáy (Sanh-Lảo-Bệnh-Tử) ?

    Từ hơn 2500 năm nay, trong lịch sử nhân loại chưa chứng minh được con đường giải thoát Dudkha nào minh bạch và chân thật bằng : Đức tin (Tín-Tnh-Niệm-Định-Tuệ) + Thực hành Tinh Tấn giáo pháp Bát Chánh Đạo do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ.

    Vấn :
    6- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi?

    Đáp :
    6- Nhờ Tâm không dễ duôi, có Chánh niệm chúng sinh vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi.

    Chánh Tư Duy :
    Có Chánh Niệm mà không có Chánh Định liệu có vượt qua nổi biển khổ tử sanh luân hồi không ?

    Vấn :
    7- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể giải thoát khổ tử sanh luân hồi?

    Đáp :
    7- Nhờ Tâm tinh tấn chúng sinh giải thoát khổ tử sanh luân hồi.

    Chánh Tư Duy :
    Tâm chưa định sao có Tâm tinh tán?

    Vấn :
    8- Bằng pháp nào, chúng sinh mới trở nên hoàn toàn trong sạch?

    Đáp :
    8- Nhờ Trí tuệ chúng sinh mới trở nên hoàn toàn trong sạch.

    Chánh Tư Duy :
    Trí tuệ sống cho việc : chế tạo vũ khí hạt nhân, thống trị, tuyên truyền tà thuyết,..có được gọi là đời sống cao thượng không ? Có trong sạch không ?..Ta không nhầm : Trí tuệ ≠ Trí huệ

    Trí tuệ (còn phân biệt, còn đối chiếu) ≠ Trí huệ (Tuệ giác) bất phân biệt, trực như nhờ thành tựu Giới-Định-Tuệ qua con đường vận dụng Trí tuệ một cách đúng đắn (Chánh Tri Kiến và Chánh Tư Duy) truy vấn đối chiếu trong, ngoài (Trạch Pháp) giúp tinh tấn thành tựu Tâm Chánh Định.

  8. #88
    thientam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Kinh ngụy tạo (Apocrypha)

    Tác giả Prof. KYOTO TOKUNO, Ph.D
    Dịch sang Việt: PHẠM DOÃN
    Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHA – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo phát triển ở nhiều khu vực Á châu giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất bằng cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.
    Kinh điển ngụy tạo (Apocrypha) có đặc điểm chung là một loại văn học, vốn thuộc về các tôn giáo bản xứ, nhưng lại tự cho mình có nguồn gốc hoặc mối liên hệ với Phật giáo Ấn Độ. Điều này đòi hỏi phải đặt ra nhiều mức độ khác nhau về tính hợp chuẩn và độ tin cậy khi tham khảo nội dung của kinh điển.Một vài kinh ngụy tạo, đặc biệt của Phật giáo Đông Á, mạo nhận nó chính là giáo pháp của Đức Phật – Buddhavacana (Word of the Buddha) tức tự mạo nhận nó là KINH (Sutra).
    Kinh ngụy tạo đôi khi cũng tự mạo nhận là lời luận giảng về kinh từ một vị thày có tiếng tăm (hoặc có khi cũng vô danh) của Phật giáo Ấn Độ, tức nó tự mạo nhận là LUẬN (Sastra). Một số kinh ngụy tạo tuyên bố xuất phát từ tuệ giác của các đấng giác ngộ ở Ấn Độ hoặc là người được truyền thừa tuệ giác đó từ một dòng phái chính thức, ví dụ như trường hợp “các bộ Thánh Thư Quí Báu” (Gterma) của Tây Tạng cho là đã được dấu kín và rồi được khám phá lại bởi những người đủ cơ duyên. Một số kinh ngụy tạo được soạn thảo theo văn phong kinh điển kiểu kể chuyện, ví dụ như trường hợp bộ “Tiền thân Đức Phật” (Jataka) của khu vực Đông Nam Á. Như vậy cái phân biệt kinh ngụy tạo với Phật học bản xứ là kinh ngụy tạo luôn tuyên bố hoặc cố ý ám chỉ rằng nó xuất nguồn từ Ấn Độ. Sự tạo ra các văn bản ngụy tạo có mối liên hệ với bản chất của các bộ kinh Phật thật trong từng mỗi truyền thống. Các bộ kinh Trung Quốc hay Tây Tạng có nội dung luôn “để mở” hay “bỏ ngõ” với mục đích cho phép sự tiếp tục thêm vào dễ dàng các bản kinh mới từ Ấn Độ qua nhiều thế kỉ. Không còn nghi ngờ gì nữa, một tình huống như vậy đã tạo cảm hứng cho ý muốn tân trang các bản kinh và khích lệ sự sáng tạo ra các bản kinh gọi là kinh ngụy tạo. Kinh Pali của vùng Nam và Nam Á, trái lại đã được “cố định” rất sớm trong lịch sử, điều này khiến khó có thể thêm vào đó những nội dung nào khác.
    Những đặc điểm chung ở trên đem đến một chỉ dẫn cho chức năng và mục đích của kinh ngụy tạo: Tích hợp tư liệu Ấn Độ vào những nội dung bản địa – đó có thể là tôn giáo, văn hóa xã hội, hoặc chính trị – bằng cách ấy nó xóa bỏ ý niệm rằng làm đồng hóa Phật giáo rất khó hoặc là không thể. Tác quyền trong văn bản truyền thống chính thức được mặc nhiên công nhận và thông qua để làm cho tôn giáo địa phương trở thành dễ hiểu đối với con người đương thời của vùng đất mới, nơi Đạo Phật được đưa vào. Thực tế lịch sử cho thấy, một vài văn bản giả đã đóng vai trò làm nhân tố phát triển nền văn hóa Phật giáo cục bộ địa phương, khi nó trở thành một phần của văn bản trong hay ngoài của kinh điển thực. Không phải tất cả kinh giả chỉ thuần túy nhằm mục đích phổ biến Phật giáo. Ví dụ, vài kinh giả Trung quốc đều cố ý đồng hóa những phong tục và cách thực hành tôn giáo có tính cục bộ địa phương bằng cách mạo nhận đấy là giáo pháp của Đức Phật.. Những ví dụ đó cho thấy (sức mạnh từ) thẩm quyền của thánh điển đã khiến sản sinh ra mảng văn học vượt ra ngoài giáo pháp thực sự của Đạo Phật, đồng thời tạo ra một loại hình văn bản thể hiện những nội dung tôn giáo cục bộ địa phương.
    Trong bộ sưu tập các kinh giả, phải nói “kinh dị” nhất là các kinh giả của Đạo Phật Đông Á. Các kinh này mạo nhận cấp bậc cao nhất của truyền thống Ấn Độ bằng cách tự nhận là lời nói của chính Đức Phật. Hiển nhiên khi kinh ngụy tạo mạo nhận là thánh điển, nó không thể không bị phát hiện bởi các nhóm bảo thủ hay tư do trong cộng đồng Phật tử. Trong thời kỳ trung cổ các kinh giả trở thành đối tượng bị khinh bỉ nhưng ngược lại chúng cũng đã trở nên công cụ và lực lượng vật chất làm biến đổi ý nghĩa của Phật giáo.
    Như vậy kinh ngụy tạo của đạo Phật Trung quốc là hình ảnh thu tóm tất cả sự phức tạp xung quanh các vấn đề lịch sử, lí lịch và chức năng của nó bao gồm một lãnh vực rộng hơn trong kinh điển Phật giáo.

    Kinh ngụy tạo của đạo Phật Trung quốc
    Kinh ngụy tạo của đạo Phật Trung Quốc được viết hầu như đồng thời với lúc khởi đầu các hoạt động dịch thuật kinh Phật vào giữa thế kỉ thứ 2 sau công nguyên. Theo ghi chép của Đại Tạng kinh Phật giáo, con số kinh ngụy tạo gia tăng liên tục qua các thế hệ cho đến ít nhất vào thế kỉ thứ tám. Các nhà làm danh mục phê bình kịch liệt các ngụy kinh, theo chuẩn mốc của họ, là “không có nguồn gốc rõ ràng” hoặc “đầy nghi vấn” hoặc lên án các ngụy kinh đã làm sói mòn sự toàn vẹn việc truyền bá kinh điển Phật giáo tại Trung quốc. Bất kể sự phối hợp của tập thể các nhà soạn danh mục, đồng thời với hội đồng của triều đình cố gắng loại bỏ các ngụy kinh bản xứ, mãi tận đến lúc kết tập cho lần in kinh lần thứ nhất (tại Trung Quốc) tức ấn bản của nhà Bắc Tống (971-983) thì việc tạo ngụy kinh mới giảm xuống rồi ngưng lại. Sự xuất bản các ngụy thư ở Trung quốc như vậy đã làm nên “hiện tượng” của thời kì gọi là “kinh điển viết dưới dạng bản thảo”. Khi những bản thảo viết tay có nguồn gốc địa phương lại có thể được chấp nhận là kinh và được xếp vào bộ thánh điển, thì giữa ngụy thư và kinh điển đã trở thành một phạm trù mơ hồ (không phân biệt được).
    Khám phá của chuyên gia thời hiện đại về các kinh điển ngụy tạo cho thấy tính phức tạp và khó khăn khi xác quyết một văn bản về mức độ giả tạo kiến thức, cũng như khả năng làm nhái các văn bản Phật giáo, của tác giả các ngụy kinh. Thật không dễ dàng cho các chuyên gia thư mục xác định được tính chính thống của kinh điển. Phải có kiến thức rất rộng về Phật học mới có thể truy tìm những văn bản ngụy tạo đặc biệt khi chúng được tạo ra bởi những loại người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Phật giáo, nhất là người đó lại có thêm kỉ năng văn chương. Ngoài ra, trong nghiệp vụ đã có lúc phải cần đến sự thỏa thuận trong cẩn trọng, ví dụ trường hợp của Bộ Lịch Đại Tam Bảo Kí (Lidai Sanbao Ji – Record of the three Treasures) xuyên suốt các triều đại; 597- vì không có lí do khác hơn là một cuộc tranh cãi cần để tẩy uế bộ thánh điển sạch các yếu tố ngoại lai có thể làm Đạo Phật vướng vào sự chí trích của các đối thủ tôn giáo và tư tưởng như Đạo Lão và Đạo Khổng.
    Vì khi tranh luận trong việc loại bỏ các yếu tố ngoại lai ra khỏi thánh điển có thể đưa Đạo Phật vướng vào sự chỉ trích của các đối thủ về mặt tôn giáo và tư tưởng như Đạo Lão và Đạo Khổng. Bộ Lịch Đại Tam Bảo Chí đã thêm vào nhiều nguồn tư liệu về tác giả và dịch giả không có thực, nhằm mục đích làm các văn bản của nó giống như của một bộ kinh thực sự chính thống. Và một khi các thuộc tính giả mạo được chấp nhận bởi bộ Thư Mục của triều đình (the Da-Zhou kanding zhongjing mulu – Danh mục kinh tạng, công bố bởi nhà Đại Chu năm 695) thì truyền thống Trung quốc buộc phải nhận thêm rất nhiều các văn bản giả tạo kiểu như thế vào bộ Đại Tạng Kinh. Bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục (Kaiyuan Shijiao Lu Record of Sakyamuni’s teaching), soạn vào đời Khai Nguyên năm 730- được cho là hay nhất trong tất cả các bộ Danh Mục Đại Tạng – Bộ này chỉ trích cả hai bộ Đại tạng trước đó. Nhưng chính bộ Khai Nguyên cũng không thể loại trừ tất cả những điều không chính xác trong quá khứ, điều này một phần cũng do ảnh hưởng nặng nề của truyền thống. Kinh ngụy tạo là một ví dụ lý tưởng cho sự lệch lạc giữa sự vận động và thỏa hiệp đạt được trong quá trình hình thành ra một truyền thống tôn giáo (bản xứ). Những kinh ngụy tạo này đã thêm vào chiều kích mới cho sự phát triển Đạo Phật Trung quốc một phần nhờ sự tình trạng tôn sùng kinh điển ở Trung quốc, nhưng quan trọng nhất là vì để đáp ứng nhu cầu cho chính tôn giáo và văn hóa tại Trung quốc.
    Có khoảng 450 tựa đề kinh ngụy tạo Trung quốc liệt kê trong Danh Mục Đại Tạng kinh Nhưng thực ra tổng số tích lũy của ngụy thư viết ở Trung quốc gần đến con số 550, khi chúng ta tính cả hai loại bằng chứng văn học, ví dụ những văn bản không liệt kê trong danh mục nhưng lần lượt được tìm thấy trong tập hợp các văn bản Phật giáo và bản thảo tại Trung Quốc và Nhật Bản. Khoảng chừng một phần ba tổng số này còn tồn tại đến ngày nay, một con số lớn kinh ngạc đối với sự kiểm duyệt liên tục ngụy thư suốt thời Trung cổ. Tỉ lệ ngụy thư còn sót lại đã chứng minh cho tính “lợi hại” của kinh Phật ngụy tạo trong bản xứ và cũng chứng minh cho sự kiện người Trung Quốc tiếp tục tin dùng loại văn bản này, trong đó có cả nhà phân tích thông tuệ như Trí Di (538-597) [1], người hệ thống hóa trường phái Thiên Thai của Đạo Phật Trung Quốc. Sự bùng nổ của hiện tượng ngụy kinh tại Trung Quốc cũng đã thúc đẩy cho sự lan rộng kinh điển ngụy tạo tại các vùng khác thuộc Đông Á, mặc dù không nơi đâu lại nhiều bằng tại Trung Quốc.

  9. #89
    thientam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Tập hợp các ngụy thư bao gồm cả hai loại: kinh ngụy tạo và các văn bản được bảo tồn như là nguồn tham khảo trong các bộ luận Trung Quốc. Kinh ngụy tạo cũng đã được tìm thấy trong bộ sưu tập các bản thảo thời trung cổ phát hiện trong hiện tại. Thứ nhất là kho cất dấu tại Đôn Hoàng ở Trung Á, được phát hiện trong thế kỉ 20, gồm các bản thảo từ thế kỉ thứ 5 đến thế kỉ thứ 11. Hai là các bản thảo kinh tìm thấy tại Nanatsu-dera ở Nagoya, Nhật Bản, được kết tập suốt thế kỉ 12, dựa vào các ấn bản kinh Phật trước đó. Vào năm 1990, phát hiện cho thấy có cả ngụy thư của Trung Quốc lẫn Nhật Bản. Điều kinh ngạc nhất trong lịch sử tìm kiếm là trong các bộ kinh được tìm thấy này là cuốn kinh Piluo Sanmei jing – the Scripture on the Absorption of Piluo, một cuốn kinh giả mạo nhưng được chứng thực trong danh mục Đại Tạng Kinh soạn bởi nhà sư học giả nổi tiếng Đạo An (312-385), trước đó thì kinh này không ai biết. Bản thảo kinh Phật tại Nhật Bản chỉ là bản sao của bộ ngụy thư có sớm nhất từ Trung Quốc. Các công cuộc tìm kiếm khác cũng không kém phần giá trị trong sự xác nhận toàn cảnh lịch sử của kinh ngụy tạo: Cả hai loại bản thảo tại Đôn Hoàng và tại Nanatsu-dera bao gồm nhiều tựa đề không thấy có trong các bảng danh mục Đại Tạng, bằng chứng chỉ ra rằng sự tự sáng tác ra kinh bản xứ còn nhiều hơn như trước đây người ta nghĩ. Hơn bao giờ hết, các học giả chuyên môn cần phải đề xuất ra hay phân loại một cách thuyết phục các kinh ngụy tạo tìm thấy ở Nanatsu-dera là soạn thảo của Nhật Bản dựa trên văn bản Ấn Độ, hay dựa trên kinh ngụy tạo ở Trung Quốc. Như vậy các ngụy thư còn tồn tại ở Nhật Bản được đóng vai trò là bằng chứng cho sự ảnh hưởng và phổ biến của loại văn bản còn tranh chấp nhưng rõ ràng “thực dụng” này.

    Văn bản và nội dung
    Tập hợp văn học ngụy tạo hiện còn tồn tại thách thức sự diễn đạt đơn giản, ví dụ mỗi văn bản có riêng một học thuyết hay một khuynh hướng thực hành, động lực, và mô thức văn học hay kĩ thuật. Vài kinh ngụy tạo rất khéo léo trong sự tổng hợp tài liệu của Phật giáo nguyên thủy (chính thống) từ Ấn Độ mà không nói bất cứ gì về nguồn gốc tộc hệ của chúng; tuy thế, một số kinh ngụy tạo khác tuyên truyền về những loại đức tin và những loại thực hành phổ biến tiêu biểu cho văn hóa bản địa, đồng thời thêm vào một cách vụng về cẩu thả những yếu tố Phật giáo nhằm mục đích giải thích cho cái tựa đề là “kinh” (tức Jing trong tiếng Trung Quốc). Đa số các kinh ngụy tạo Trung Quốc rơi vào hai cực đoan khi ca ngợi các đức tin và cách thực hành Phật giáo như là phương tiện để thu hoạch lợi ích vừa trần gian vừa tâm linh. Một số các nhà chuyên môn đã dự định thực hiện “phân loại hệ thống” (Typological classification) đối với tất cả các ngụy thư còn tồn tại, nhưng điều này sẽ còn khó khăn cho đến khi đã nghiên cứu toàn thể các ngụy thư và thấu hiểu các nội dung tôn giáo và văn hóa xã hội của chúng. Sau đây là những phê bình có chọn lọc về những nguyên cớ cho sự xuất hiện của các kinh giả tạo, điều này phản ánh cái cách mà giáo pháp của Đức Phật đã bị đóng khung và bị suy diễn.
    Chúng ta bắt đầu bằng hai ví dụ kinh ngụy tạo từ học thuyết Đại Thừa ủng hộ một lý thuyết hay một cách thực hành không có phiên bản tương ứng trong Phật giáo Ấn Độ. Thứ nhất cuốn Khởi Tín Luận (Dasheng Qixin lun) tái tạo Phật giáo chính thống bằng cách tổng hợp ba khuynh hướng chính của học thuyết Ấn Độ: Tánh không (Sunyata), A Lại Da Thức (Alayavijnana) và Thai Tạng giới (Tatha Gatagarbha). Kinh này nhằm đặt ra một bản thể luận cho tâm trí con người, theo đó Tâm trí có thể đồng thời vừa vô minh vừa có giác tánh nội tại. Sau khi xuất hiện ở thế kỉ thứ sáu, bộ Luận Khởi Tín có lẽ đã trở nên ví dụ nổi bật của sự tác động của kinh ngụy tạo vào sự phát triển của hệ tư tưởng Phật giáo Trung Quốc, vì nó đã trở nên chất xúc tác cho sự hình thành các học thuyết của các giáo phái (pháp môn) bản xứ như Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Thiền Tông (TQ). Văn bản ngụy thư cũng là ví dụ chủ yếu cho phương cách của một tác giả bản xứ chọn lọc phù hợp và tổng hợp một cách thông minh những văn bản Ấn Độ sao cho thích nghi hoàn hảo với bản chất tôn giáo Trung Quốc. Trường hơp thứ hai, cuốn Kinh Kim Cang Định (Jin’gang sanmei jing, Vajrasamadhi sutra) được tạo ra bằng sự pha trộn hỗn tạp tất cả các học thuyết Đại Thừa, nhằm cung cấp một nền tảng cho một hệ thống thực hành thiền và khẳng định hiệu quả giải thoát của hệ thống đó. Đây là một trong những những bản kinh lâu đời nhất của Thiền Tông của Trung Quốc và Đại Hàn, vì vậy có tính tiêu biểu lịch sử. Không giống trường hợp của các kinh ngụy tạo khác đã bàn đến trong bài viết này, một nghiên cứu cho rằng kinh này thực sự là tác phẩm của Đại Hàn từ thế kỉ thứ 7 (theo Buswell 1989). Bản ngụy kinh này, cùng với ngụy kinh tại Nhật bản đã đề cập ở phần trước, chính là thước đo cho mối liên hệ hữu cơ có được giữa Phật Giáo Trung Quốc với phần còn lại của Đông Á, và cũng cho thấy có sự kích động lan tràn của việc tạo tác kinh bản xứ ở khắp khu vực.
    Một số kinh ngụy tạo thêm vào các nguồn dẫn và sự suy diễn với mục đích tăng cường một giá trị hay quan điểm nào đó của Đạo Phật với môi trường bản xứ. Giới luật, nền tảng của giải thoát Phật giáo, đã được kinh ngụy tạo thể hiện nổi bật như một chủ đề. Ví dụ như Kinh Phạm Võng (Fanwang Jing, Brahma’s bet sutra)). Kinh này thay đổi một phần giới luật của Bồ Tát đạo bằng cách thêm vào khái niệm Hiếu của Đạo Khổng, một xảo thuật lộ liễu phản lại cả truyền thống Trung Quốc cũng như nổ lực tương thích hai hệ thống giá trị quá khác biệt. Cũng phải nói đến những vấn nạn phát sinh khi đặt để những trói buộc có tính thế gian lên tăng đoàn và tăng sĩ. Sự pha trộn giữa giáo pháp và các mối quan tâm trần tục chính là điểm tiêu biểu cho các kinh ngụy tạo, như ta sẽ thấy dưới đây.

  10. #90
    thientam
    Guest

    Re: Từ cuộc đời... đến TOTHA

    Có loại kinh ngụy tạo đưa ra giới luật nhấn mạnh một cách đặc biệt vào giới cư sĩ. Loại kinh như thế gồm các kinh như Piluo sanmei jing – the Scripture of the absorption of Piluo, Tiwei Jing – The scripture of Tiwei và Chingjing Faxing Jing – the Scripture of pure religious cultivation. Các ngụy kinh này dạy hướng dẫn đạo đức cơ bản cho cư sĩ, như ngũ giới, thập thiện, sự quan trọng của cúng dường tất cả được dựng trong học thuyết của Nghiệp và Tái sanh. Năm giới cư sĩ được cho là điều kiện đủ để đạt tới giác ngộ của Phật, một con đường cực kì đơn giản vạch ra để động viên sự tham gia của cộng đồng cư sĩ vào thực hành Đạo Phật. Những giới đó còn thường được coi như tối cao hơn năm đức của Khổng Giáo, hơn sự rối rắm siêu hình của thế giới quan cổ đại của người Trung Quốc, kể cả hệ thống âm dương, ngũ hành và năm tạng của Y học Lão Giáo. Khái niệm “Hiếu” thể hiện rất rõ trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân (Fumu enzhong jing – the Scripture on profound gratitude toward parent) đặt căn bản trên giáo huấn theo kiểu “24 ân phụ mẫu” của Khổng Tử. Ngụy thư tô đậm hành động cụ thể của người con bất hiếu và thúc đẩy anh ta phải báo đáp cha mẹ, phải hi sinh bằng cách cúng dường tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Loại kinh này là một trong những kinh ngụy tạo phổ biến nhất vào thời Trung cổ.
    Luật nghiệp và tái sanh được đề cập ở trên là một chủ đề có khắp mọi nơi hay một hậu cảnh của kinh ngụy tạo. Văn bản được biết một cách phổ biến ví dụ như kinh Thập Điện Diêm Vương (the Shiwang Jing, the Scripture of the Ten Kings) minh họa giáo lý Đạo Phật Ấn Độ cho độc giả Trung Quốc bằng cách mô tả sự thanh tẩy sau khi chết. Sau khi chết, mỗi người phải lần lượt đi qua mười cửa địa ngục, mỗi địa ngục cai quản bằng một phán quan; số phận của của môt người sau khi chết tùy thuộc vào sự xét xử hành động của người đó lúc còn trên trần thế. Địa ngục kiểu phong kiến này là một sự đổi mới để phản chiếu cấu trúc chính trị-xã hội Trung Quốc. Ảnh hưởng rộng khắp của kinh này có thể được chuẩn hóa từ nhiều tranh ảnh, đá điêu khắc và tượng về Thập Điện Diêm Vương- với chuẩn mực trang phục, mũ mão truyền thống của các quan chức Trung Quốc- tất cả thấy ở nhiều nơi trong thời Trung cổ.
    Các kinh ngụy tạo là sản phẩm ở những không gian và trong những thời gian đặc biệt, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi có sự phê phán tình trạng tôn giáo đó, hay sư phê phán toàn thể xã hội, cả cấp quốc gia mà chính sách của nó đã thực hiện đối với Đạo Phật. Những phê phán như thế đã thường thể hiện trong khái niệm về thuyết Mạt Thế gọi là Thời Mạt Pháp truyền vào từ các nguồn Ấn Độ.. Kinh Nhân Vương (Renwang Jing, Humane King sutra) mô tả sự thoái hóa tất cả các tầng lớp xã hội, thiên tai, dịch bệnh, quyền kiểm soát đất nước, sự suy đồi biến dạng Đạo Phật, buông lơi giới luật của Phật tử. Giải pháp được đề xuất cho khủng hoảng này là sự hoàn thiện Tuệ giác (trí huệ bát nhã), cái được tin là có thể khôi phục trật tự tôn giáo xã hội và ngay cả bảo vệ được sự diệt vong của đất nước. Kinh được phổ biến rộng trong thời Trung cổ của khu vực Đông Á, đặc biệt là trong giới cầm quyền ít nhất cũng là vì nó cũng khẳng quyết về việc bảo vệ quốc gia. Kinh Tỳ kheo Nguyệt Quang (Shoulo biqiu Jing – Scripture of Bhiksu Shoulo) đưa ra một giải pháp khác cho thời Mạt Pháp: Nó tiên tri một đấng cứu thế xuất hiện, Nguyệt Quang, vào lúc khủng hoảng và suy đồi đã đến lúc cực điểm. Một thông điệp cứu thế như vậy dĩ nhiên không thể không có cội nguồn từ Phật Giáo Ấn Độ- giáo phái thờ phật tương lai Di Lặc là một ví dụ- nhưng sự đề xuất một đấng cứu thế trong thế giới hiện tại có thể dễ bị giải thích như một sự lật đổ chính trị và là một thách thức cho nhà cầm quyền của chế độ thế tục. Kinh này là một kinh ngụy tạo đã bị thất lạc được tìm thấy tại Đôn Hoàng 1400 năm sau lúc có bằng chứng là nó được sáng tác.
    Phần bài viết tới đây chỉ chạm đến một phần rất nhỏ câu chuyện về Kinh Phật Giáo ngụy tạo. Ngay cả khi đã được làm rõ, Kinh ngụy tạo vẫn chiếm chỗ quan trọng trong lịch sử Phật Giáo như một sự đổi mới và thích nghi để nối liền văn bản từ truyền thống Phật Giáo Ấn Độ với tôn giáo, văn hóa, xã hộ bản địa Trung Quốc. Tuy vậy chúng cũng cung cấp tài liệu vật chất cho các nghiên cứu liên văn hóa và nghiên cứu đối chiếu các thánh điển, các kinh trong các truyền thống tôn giáo khác nhau.

    Chú thích của người dịch
    [1] Trí Di (chữ Hán: 智顗; Wade-Giles: Chih-i; 538 – 597) được coi là Tổ thứ tư của Thiên Thai tông; đệ tử của Huệ Tư, Tổ thứ ba của Thiên Thai tông.
    Ông tu trên núi Thiên Thai thuộc tỉnh Chiết Giang 22 năm cho đến khi mất để nghiên cứu Phật học. Tùy Dưỡng Đế đã ban cho ông danh hiệu Trí Giả, nên ông được người đời tôn xưng là Trí Giả đại sư hay Thiên Thai đại sư.
    Hầu hết các sách tiếng Việt đều phiên tên ông là “Trí Khải“. Tuy nhiên tên đúng của ông phải là Trí Di. Encyclopædia Britannica (Từ điển Bách khoa Britannica) đã viết rõ về vấn đề này như sau, trong mục từ Chih-i:
    Pinyin Zhiyi, also called Chih-k’ai Buddhist monk, founder of the eclectic T’ien-t’ai (Japanese: Tendai) Buddhist sect, which was named for Chih-i’s monastery on Mount T’ien-t’ai in Chekiang, China. His name is frequently but erroneously given as Chih-k’ai.

    http://phatphapchanthat.blogspot.com...apocrypha.html

+ Trả lời Chủ đề
Trang 9 của 14 Đầu tiênĐầu tiên ... 7 8 9 10 11 ... CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình