-
Lời nguyền của đạo sĩ gotama trong sử thi ramayana của ấn độ
Ấn Độ là nước có một nền văn minh, văn hóa đạt đến trình độ hoàn chỉnh và sớm nhất trê thế giới
Ngoài bộ sử thi Mahabharata thì bản anh hùng ca Ramayana là một tác phẩm vĩ đại của Ấn Độ, nó xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên, nhân vật chính trong sử thi này là chàng Rama và nàng Xita
Rama là con trai của Hoàng đế Daxaratha và Xita là con gái của Gianaka
Tác phẩm này đã ảnh hưỡng đến toàn bộ nền văn minh của Ấn Độ trong mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, nó đã đi sâu vào tất cả tầng lớp nhân dân Ấn Độ cho dù đó là trí thức hay người nông dân cho dù đó là nhà thơ, nhà văn hay là người làm chính trị, tu sĩ
Trong sử thi Ramayana có viết về câu chuyện đạo sĩ Gotama bắt gặp vợ đang ngoại tình với một người đàn ông trên giường ngũ và ông đã thốt ra một lời nguyền đối với tình địch như sau : “ ... ta biết ngươi rồi, tính đam mê đến ám ảnh đối với giống cái là tai họa của ngươi. Như vậy sẽ có hằng nghìn dấu vết của giống cái phủ lên thân thể ngươi để cho mọi người trên khắp cõi trần có thể hiểu được đầu óc ngươi luôn luôn có gì đang thực sự diễn ra trong đó ”.
Những lời này vừa thoát ra khỏi môi đạo sĩ thì lập tức hàng nghìn bộ phận sinh dục của người phụ nữ hiện lên trên khắp thân thể của kẻ tình địch.
Đó là một phần mà đạo sĩ Vivamitra kể cho Rama nghe trong câu chuyện “ Nàng Ahalia ”
Indra - vị thần đầy ham muốn
Câu chuyện đó bắc đầu khi Brahma, đức sáng thế tạo ra một người đàn bà, ngoài cái đẹp tuyệt đối, nàng được đặt tên là Ahalia, một cái tên phù hợp với dáng dấp của nàng, Ahalia nghĩa là đẹp tuyệt vời
Đức Brahma giao cô gái bé nhỏ cho đạo sĩ Gotama nuôi nấng, cô lớn lên trong sự chăm nom, săn sóc của vị đạo sĩ, cho đến lúc Ahalia trưởng thành thì Gomata đem trả nàng lại cho đức Brahma và Gotama xin đấng sáng thế cưới nàng làm vợ
Đức Brahma đánh giá cao tấm lòng tinh khiết và tư tưởng trong sáng của vị đạo sĩ, con người chưa hề có một lần để gợn lên những ý nghĩ tầm thường về xác thịt trong suốt thời gian dài nuôi dưởng cô bé, ngài phán : “ Con hãy lấy nó đi, nó xứng đáng là vợ của con, hay nói đúng hơn là chỉ có con mới xứng đáng làm chồng Ahalia ”
Ahalia đã lấy chồng như vậy và nàng được đức Brahma cùng các vị thần khác ban phúc cho, nàng đã sống với Gotama suốt cả thời thơ ấu nên Ahalia biết rõ tính nết của chồng và đã tỏ ra một người vợ tuyệt vời .Họ đã sống hạnh phúc bên nhau
Thần Indra vốn là một vị thần cao cả nhất trong các vị thần của đấng sáng thế, người say mê vẽ đẹp của nàng Ahalia và đinh ninh chỉ có mình mới xứng đáng lấy nàng làm vợ .
Không thất vọng và bỏ cuộc mặc dù đấng sáng thế khuờc từ lời cầu hôn của mình, Indra vẫn theo đuổi và không từ bỏ những ảo vọng xấu xa đối với Ahalia, Indra thường hay đến gần lều cỏ của Gotama dưới nhiều lối hóa thân khác nhau để hể có dịp là ngắm nhìn và thưởng thức khuôn mặt và dáng hình của Ahalia .
Thần theo dỏi những thói quen của đạo sĩ Gotama và biết rằng hằng ngày đạo sĩ thường rời lều cỏ vào lúc bình minh đi ra sông để tắm và để cầu kinh khoảng hai giờ, không thể chịu đựng mối tình hờ hững như thế này nữa, Indra quyết định dùng mưu mô lừa bịp để chiếm trái tin của nàng
Một hôm, khó lòng đợi đến giờ cho đạo sĩ ra đi theo thường lệ, Thần Indra đã giả tiếng gáy của con gà trống đánh thức đạo sĩ dậy, vị đạo sĩ tưởng trời sáng nên đã ra đi
Bấy giờ Indra mới đội lốt đạo sĩ rồi chui vào trong lều và làm tình với Ahalia . Nàng thuận tình nhưng chẳng mấy chốc nàng mới nhận ra rằng kẻ đang hành lạc với mình không phải là Gotama, chồng nàng, nhưng nàng đã không làm gì được nữa rồi
Ngay lúc đó Gotama quay về lều cỏ, trong lòng tự nhiên cảm thấy có điều gì không hay và bắt gặp cả hai trên giường
Ahalia đứng sang một bên vừa xấu hổ vừa hối hận còn thần Indra vội biến thành con mèo và tìm cách chuồn đi, đạo sĩ nhìn hết Ahalia rồi lại nhìn con mèo, ông chận con mèo lại và nói với nó ..... ... ta biết ngươi rồi
Sau khi Indra biến đi, trở về thế giới riêng tư của hắn, đạo sĩ nhìn vợ và nói : “ Thân thể của nàng đã phạm vào tội lỗi. Hãy để cho cái thân thể đó cứng lại thành một tảng đá không có hình thù rõ ràng, ngay ở nơi nàng…”.
Ahalia thất vọng và van xin ; “ Thiếp đã phạm phải một sự nhầm lẫn nghiêm trọng, những tâm hồn cao cả xưa nay vẫn tha thứ cho những lầm lạc của những kẻ thấp kém hơn mình .... và rồi nàng đã cảm thấy một sức nặng lạ lùng đang thấm dần, thấm dần trên đôi chân, nàng thều thào ...xin chàng làm một diều gì để giúp thiếp .. ”
Lúc này đạo sĩ cũng thấy khổ tâm và nói với vợ : “ Khi nào chàng Rama, con trai của Hoàng đế Daxaratha đi qua con đường này vào một ngày nào đó thì nàng sẽ được cứu rỗi ”
“ Bao giờ và ở đâu ” nàng thất vọng hỏi lại .....nhưng trước khi lời nói ra khỏi môi thì nàng thì nàng đã biến thành một tảng đá rồi
Tình cảnh của Indra lúc đầu đã trở thành một trò chơi trong cõi trần nhưng về sau thì thấy rõ là bi thảm quá. Indra luôn ở trong bóng tối và chui rúc trong các xó xỉnh, không bao giờ dám ra trước mặt người khác. Điều đó đã làm động lòng trắc ẫn các vị thần, hơn nữa, những nhiệm vụ trăm hình nghìn vẻ trong thế giới khác nhau đều phải ngưng lại vì không có Indra, một kẻ khôn ngoan, hiểu biết thì mọi việc trên thế gian này đình trệ nên họ đã kéo một đoàn đến gặp đức Brahma, xin Người can thiệp giúp với Gotama.
Bấy giờ, nỗi bực dọc trong lòng đạo sĩ cũng đã nguôi và đạo sĩ đã đáp lại lời kêu gọi của đức Brahma, ông ta nguyện rằng : “ Cho một nghìn thứ đã cộng thêm vào dáng dấp của Indra đều trở thành mắt cả”. Về sau, do đó mà Indra đã trở thành “vị thần nghìn mắt”.
Thần Indra vốn là vị thần cao cả và hiểu biết nhất trong các thần, một nhân vật được mô tả là khôn ngoan chỉ sau đức Brahma sáng thế mà chỉ vì nỗi đam mệ nhục dục mà đã mắc phải một lời nguyền vô cùng ấn tượng của đạo sĩ Gotama
Ahalia có phải là nạn nhân của việc cưỡng dâm hay là ở nàng đã
có một sự đồng thuận với Indra
Đạo sĩ Gotama đã nguyền rủa để cho Ahalia vợ mình biến thành tượng đá cũng chỉ vì ghen
Suy ngẫm để hiễu được sự biến thể giữa cơ quan sinh dục nữ thành ra cơ quan thị giác chỉ bằng một góc xoay 90 độ trong lời nguyền của đạo sỉ Gotama quả thật không phải là dể,
Điều nhận xét và cái triết lý của câu chuyện nàng Ahalia phải chăng sự khôn ngoan lại bắt đầu từ một nơi thầm kín của người phụ nữ mà ra
Kết thúc câu chuyện là lời cầu xin của đạo sĩ Vivamitra, người đã từng làm vua, người đã từng có nhiều chiến công hiễn hách và tên tuổi của ông là niềm sợ hải cho biết bao nhiêu người và quỷ dữ với Hoàng tử Rama khi Hoàng tử đi ngang qua nơi mà nàng Ahalia hóa đá
“ Hởi đại nhân, ngài sinh ra để phục hồi đạo đức, lẻ phải cho nhân loại và tiêu diệt mọi tội ác ”
-
Dâm nữ ma đăng già & bát kiết đế
DÂM NỮ MA ĐĂNG GIÀ & BÁT KIẾT ĐẾ
trong SURAMGAMA SUTRA
BS.HỒ ĐẮC DUY
Trong một số tài liệu và sách đã được phát hành hay có trên mang internet thì chuyện tôn giả A Nan và người đàn bà Ma Đang Già trong Suramgama Sutra mổi sách nói một khác nhau, xin tóm lược như sau :
Trong Suramgama Sutra bản dịch của BS Lê Đình Thám trang 32 chép : " Trong khi đi khất thực, ông A Nan đi qua nhà người dâm nữ Ma Đăng Già bị phép huyễn thuật, nàng ấy dùng tà chú Tiên Phạm Thiên đạo Sa Tỳ Ca La ( Ca tỳ Kapila ) bắt vào phòng riêng, dựa kề, vuốt ve làm cho ông A Nan gần phá giới thể.... biết ông A Nan mắc phải dâm thuật...."
Bản dịch trong sách Lăng Nghiêm Tông Thông của chùa Tây Tạng Bình Dương thì viết :
“ Khi đi khất thực, ông A Nan đi qua nhà nguời dâm nữ Ma Đăng Già, bị phép huyễn thuật của cô ta, là tà chú Sa Tỳ Ca La của ngoại đạo, bắt vào giuờng riêng dựa kề vuốt ve làm cho ông gần phá giới thể ”
Trong sách Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ đề cương của Pháp sư Thích Từ Thông thì : “ ...Ma Đăng Già là một gái làng chơi, Ma Đăng Già dùng tà chú Tiên Phạm Thiên của đạo Saticala bắt ông vào phòng riêng dụng ý lẳng lơ, diễn trò má dựa vai kề, nâng niu âu yếm, làm cho ông A Nan gần mất giới thể ..”
Trong sach của Thích Duy Lực
“ Lúc A Nan đang khất thực đi ngang nhà dâm, bị nàng huyễn thuật Ma Đăng Già dùng tà chú Phạm Thiên của ngoại đạo tóc vàng nhiếp vào nhà dâm, vuốt ve cám dỗ, sắp bị hoại giới thể.
Theo giải thích của HÒA THƯợNG TUYÊN HÓA thì Ma Đăng Già là tên của nguời mẹ cô gái đã đem lòng thầm yêu trộm nhớ ông A Nan, cô gái có tên là Bát Kiết Đế
Trong TỰ ĐIỂN PHẬT HỌC VIỆT ANH của Minh Thông
Ma đăng già (Matanga) Tên một dâm nữ thành Xá vệ nước Câu tát la, dùng chú ngoại đạo bắt ông A Nan lúc ông đi khất thực, nhờ Phật đọc Phật Đảnh thần chú và ngài Văn Thù phụng chú đi cứu giải đưa cả hai về. Sau đó Ma đăng già thọ giới xuất gia làm tỳ kheo ni, về sau đắc A la hán.
Theo Tự Diễn Phật Học Hán Việt chép : “ Khi Phật còn tại thế có cô con gái Ma Đăng Già, còn gọi là Bát Cát Đế dùng ảo thuật mê hoặc ngài A Nan, để cùng ông hành lạc..”
Vậy Ma Đăng Già ( Matanga ) là ai
Ma Đăng Già trong tiếng Phạm mà Trung Hoa dịch là Giai cấp Hạ Tiện, giai cấp cùng đinh trong xã hội Ấn Độ bấy giờ
Trong Tự Điễn Phật Học Hán Việt chép: Bát cát đế (prakrti, Pakati) (Người): Còn gọi là Ba cơ đề, Bát cát đề, dịch là Bản tính, Chí tính. Một dâm nữ thuộc dòng họ Ma đăng già. Dâm nữ khi nhìn thấy ngài A nan mà sinh lòng dâm dục rồi tự thú với mẹ. Bà mẹ niệm thần chú mê hoặc được ngài A nan. Khi ngài A nan sắp sửa hành lạc với dâm nữ thì được đức Phật cứu. Nàng dâm nữ tỉnh ngộ liền xuất gia. X. Tì nại da,q.3 và kinh Ma đăng già, 2 quyển; kinh Ma đăng nữ giảI hình trung lục sự, 1 quyển; kinh Ma đăng nữ, 1 quyển; kinh Xá đầu gián, 1 quyển. Bốn kinh này là cùng một nguyên bản, song người dịch khác nhau. Tất cả đều ghi chép sự việc về cô gái Ma đăng già, song đây đều thuộc Tiểu thừa bộ. Kinh Thủ lăng nghiêm của Đại thừa bộ có chép: ngài A nan đi khất thực, khi đi qua nhà dâm nữ thì gặp và bị nàng Ma đăng già dùng chú Phạm thiên Sa tì la tiên dắt vào chiếu định hành dâm. Đức Như Lai bèn niệm Đỉnh quang thần chú, ban sắc sai ngài Văn thù sư lị đến bảo vệ ngài A nan và nàng Ma đăng già về chỗ đức Phật. Việc này hai bộ Đại thừa, Tiểu thừa chép không giống nhau. (trang 104)
Ca Tỳ Ca La ( Kapila ) là một nhóm người ngoại quốc, sống ở Ấn Độ bấy giờ, là người da trắng, tóc vàng hoặc bạch kim, mắt xanh hoặc nâu có thể nhóm sắc tộc này là giống người ở châu Âu hay nhóm Bạch Nga ....những người này khác hẳn với sắc dân Ấn Độ và Trung đông, họ là người bản địa da đen hoặc nâu, mắt và tóc đen, họ có ngôn ngữ và tôn giáo riêng
Ca tỳ la Kapila hay Kapina là Kiếp tân na là Hoàng Xích Sắc Tiên Nhân, Ca Tỳ Ca La là một kẻ ngoại đạo, một kẻ luận sư, kẻ ngoại đạo này tin rằng Phạm Thiên Vương là vua của cõi Ta bà thế giới, nguời đã khai sinh tạo dựng vạn vật muôn loài, cũng là Tổ sư phái số luận. mà kinh của phái có tên là Sankhyā Sutra
Số luận phái Sankha theo thuyết Tiến hóa nhị nguyên luận, có hai học phái :
1- Học phái Tăng khư đa (Học phái Số luận), một phái tu của Bà la môn giáo ở Thiên trúc hoạt động trước khi đức Phật ra đời, dựa vào hai nguyên lý tinh thần thuần túy và nguyên chất căn bản để thuyết minh thế giới hiện thực.
2- Tăng khu luận trong Vệ đà.
Phạm Thiên ( Brahmadeva, Brahma-sanamku hay Brahmā ) là một dấng sinh ra vũ trụ (creator of the world )còn được gọi là Phạm thiên vương hay Ngọc Hoàng thượng đế, Phạm thiên Cha tất cả chúng sanh, Hộ pháp của Phật Pháp - Chính vị Phạm vương này khi Phật chưa xuất gia thì Ngài khuyên xuất gia, khi đắc đạo thì Ngài khuyên Phật nên chuyển pháp luân, khi Phật nhập diệt thì Ngài cũng hiện ra tỏ lời thương tiếc ?
Điều bí ẫn là đạo tà chú Ca Tì Kapila đó nói gì, hệ lụy nó ra sao mà có thể tác động như một hấp lực khiến A Nan một nguời đã phát tâm xuất gia,học rộng nhớ nhiều mà không cưỡng lại được tà thuật của nguời dâm nữ Ma Đăng Già, một yêu nữ ngoại đạo dụ dỗ đến nỗi gần phá giới
Tà chú đó có phải là Kama sutra hay không thì cũng chưa lý giải đuợc, tuy nhiên có một điều là Ma Đăng Già đã dùng thứ tà chú đó bắt đuợc ông A Nan vào phòng riêng ( có sách dịch là giường riêng) để cùng ông hành lạc.....”
Tà chú của kẻ luận sư này có phải là tiền thân của Tố Nữ Kinh hay là một loại chủ nghĩa phồn thực, thờ cúng sinh thực khí, một loại linga- Youni .... ?
Có lẽ tà chú của Ca Tỳ Ca La là một loại đối thoại về cách sống, cách hòa hợp thuờng tình trong đời sống vợ chồng, trong các ăn uống,cư xữ, nuôi con, đẻ cái, và nhất là các bí quyết mang lại hạnh phúc cho tâm hồn lẫn thân xác một kỷ thuật nâng cao chất lượng trong chuyện phòng the .... Có thể tà chú là một chủ trương, một dẫn dụ về đời thường của con nguời trong tiến trình sinh lảo bênh tử, diễn dịch tinh vi của cái tứ khoái ....tất cả đều nói đến và chấm dứt trong một kiếp người,
Tà chú đó có phải là lời của Nguyễn Du muợn Tú bà dạy Kiều hay không ?
Con ơi, hãy thuộc nằm lòng
Vành ngoài bảy chử vành trong tám nghề
Tà chú của kẻ luận sư này có phải là tiền thân của Tố Nữ Kinh hay là một loại chủ nghĩa phồn thực, thờ cúng sinh thực khí, một loại linga- Youni .... ?
Có lẽ tà chú của Ca Tỳ Ca La là một loại đối thoại về cách sống, cách hòa hợp thuờng tình trong đời sống vợ chồng, trong các ăn uống,cư xữ, nuôi con, đẻ cái, và nhất là các bí quyết mang lại hạnh phúc cho tâm hồn lẫn thân xác một kỷ thuật nâng cao chất lượng trong chuyện phòng the .... Có thể tà chú là một chủ trương, một dẫn dụ về đời thường của con nguời trong tiến trình sinh lảo bênh tử, diễn dịch tinh vi của cái tứ khoái ....tất cả đều nói đến và chấm dứt trong một kiếp người, theo giải thích của hòa thựơng Tuyên Hóa thi khi trì chú có thể khiến nguời khác bối rối rơi vào tình trạng buồn ngũ, lơ mơ, hỗn loạn, rơi vào một giấc mơ hay rớt vào tình trạng hôn mê, một trạng thái không điều khiễn đựơc mình .không tự chủ được
Kỷ thuật thôi miên trong phân tâm học, hay trong khai thác việc nói thật của các cơ quan thẫm vấn cũng đưa người bênh hay dịch thủ của mình rơi vào tình trạng này
Điều thú vị ở đây truớc khi bàn luận đến một vấn đề quá vĩ đại, sinh tử, căn bản rốt ráo của một tôn giả đã dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy được lại đem một chuyện " .... vào phòng riêng, dựa kề, vuốt ve làm cho một nguời đàn ông gần phá giới thể.... " làm duyên khởi, tại sao vậy ? có một ẩn ý gì truớc khi khai thị ở đây không ?
-
Dâm nữ ma đăng già & bát kiết đế
Câu chuyện về ông A Nan và Bà Ma Đăng Gìa
Trong bài cua TM.Tuệ ” chép như sau:
«Với thân hình trẻ đẹp, A Nan rất được các cô gái trẻ mê say.
Một hôm, sau mùa an cư, A Nan mang bát, một mình đi vào thôn xóm khất thực. Nhân trời nóng nực, khát nước, A Nan đến bên 1 cái giếng xin nước uống. Vì ham cúi xuống giếng kéo nước, không thấy A Nan. Khi đứng thẳng người, cô gái trực nhận thấy A Nan, 1 Tỳ Kheo thuộc dòng Sát Ðế Lợi. Không kịp chạy trốn, vô gái tự xưng tên họ, dòng dõi và cuống quít xin lỗi A Nan. Cô gái tự khai thuộc dòng nô lệ tên là Bát Cát Ðế (Praksti hay Pakati), dòng họ Ma Ðăng Già (Matanga). Do đó, cô không thể tiếp xúc và dâng nước cho A Nan được. A Nan bảo là tôi xin nước chứ đâu có xin giai cấp và hơn nữa giáo pháp của Phật giảng dạy cho con người nên có tâm bình đẳng với mọi giai tầng trong xã hội.
Sau khi gánh nước về nhà, cô gái tương tư A Nan, bỏ ăn, bỏ ngủ, cơ thể xác xơ. Cha mẹ cô vặn hỏi mãi mới biết được sự tình. Vì thương con, muốn con khỏi bấn loạn tâm thần, bà mẹ cô gái xin bùa chú để bắt A Nan làm chồng con gái mình.
Một hôm khác, A Nan một mình đi vào thôn xóm của cô gái khất thực, cứ thứ tự khất thực. A Nan dừng bước trước nhà cô gái. Thấy bóng dáng A Nan cô gái mừng quýnh vội vàng chạy ra chào hỏi đủ điều và quỳ dâng A Nan bát nước. Lúc đó, A Nan lạc vào mê hồn trận, lảo đảo đi theo cô gái vào nhà. Cha mẹ anh em cô gái đều đi vắng, cô gái nghĩ là mình sẽ tự do ân ái với thầy Tỳ Kheo trẻ đẹp và thầy sẽ bỏ áo cà sa làm chồng mình. May mắn thay, khi vào trong phòng kín, A Nan từ từ tỉnh trí, vì thuốc mê cũng từ từ theo thời gian mà hết hiệu nghiệm. Dù đã tỉnh, A Nan thấy mình mắc nạn và khó thoát vì cổng ngoài và cửa phòng đều đã đóng chặt. Liền khi đó, A Nan tưởng đến Phật và mong Phật đến giải vây trừ nạn. Nhờ có thần giao cách cảm, tại Tịnh xá, Phật quán chiếu biết A Nan mắc nạn đàn bà. Phật liền đem thần chú Lăng Nghiêm bảo Xá Lợi Phất mang đến trì tụng trước nhà Ma Ðăng Già. Nhờ nhất tâm niệm chú của Xá Lợi Phất và toàn thể Tăng đoàn, cô gái Ma Ðăng Già buông tha A Nan và xin theo Xá Lợi Phất về Tịnh xá cầu Phật cho xuất gia.Qua tai nạn xảy ra suýt mất phẩm hạnh, A Nan hết dám đi khất thực một mình.»
Còn HT. Tuyên Hóa thì giảng :
“ A Nan rất đẹp trai, thân thể hoàn hảo có 32 tướng tốt, da trắng như tuyết,sáng bóng như bạc, lấp lánh như có suơng phủ, hầu hết nguời Ấn Độ có da đen nhưng A Nan lại khác
Bát Kiết Đế nói với mẹ là Ma Đăng Già
- Con muốn lấy A Nan
- Ông ta là đệ tử của đức Phật, làm sao con có thể cưới ông ta được, ông ta là tăng sĩ và không thễ cưới vợ, con không thễ cưới ông ta được
Tại sao con gái bà Ma Đăng Già có một sức hấp dẫn níu kéo A Nan như thế - Câu chuyện của A Nan va con gái bà Ma Đăng Già trong 500 đời truớc đã là vợ chồng của nhau, vì họ đã kết hôn với nhau từ nhiều đời truớc nên ngay khi cô thấy A Nan, tập khí củ liền trổi dậy, cô liền cảm thấy yêu A Nan điên cuồng, A Nan đã là chồng cô nhiều đời trước, nay cô lại dứt khóat muốn A Nan làm chồng cô ta lại
Vì những hạt giống này đã gieo trong từ đời này sang đời khác, nên bây giờ nếu cần hy sinh vì A Nan cũng được thôi... ”
Còn HT. N-Hạnh trong một lần pháp thoại lại nói :
“ Thời của Bụt cũng có một cô gái thuộc giai cấp hạ tiện, tên là Matanga. Cô này xinh lắm và cô yêu Thầy A Nan. Chuyện bắt đầu xảy ra khi Thầy A Nan đi khất thực, khát nước, và ghé vào một cái giếng để tìm nước uống. Thầy thấy cô gái kia đang múc nước. Thầy nói: "Cô cho tôi uống một ngụm". Cô trả lời: "Con là con gái giai cấp hạ tiện. Con đâu có quyền đưa nước cho Thầy uống". Thầy A Nan thấy tội nói: "Theo giáo lý của Ðức Thế Tôn dạy, tôi không phân biệt giai cấp. Cô cứ đưa cho tôi uống". Cô mừng quá, đưa nước cho Thầy uống, và từ đó cô tương tư Thầy. Cô ngủ không được. Cô bị bệnh. Rồi cuối cùng cô bàn với bà mẹ mời Thầy tới để cô có dịp tỏ tình. Và hai mẹ con đã dùng bùa chú, dùng một thứ lá cây nào đó làm nước trà mà khi uống vào Thầy A Nan mất cả sự tỉnh táo. Thất Thầy A Nan quá giờ mà chưa về, Bụt sai các thầy khác đi tìm và may mắn kiếm được Thầy A Nan trước khi Thầy làm một cái gì sai với uy nghi và hại tới giới phẩm. Thầy A Nan uống xong thứ nước trà kia, biết là bị trúng độc, liền ngồi im vận dụng phép thở khí công. Thầy thở theo chánh niệm và đợi các thầy khác tới giải cứu. Các thầy cũng đem luôn cả cô Matanga về.”
Theo giải thích của HT Tuyên Hóa thi khi trì chú có thể khiến nguời khác bối rối rơi vào tình trạng buồn ngũ, lơ mơ, hỗn loạn, rơi vào một giấc mơ hay rớt vào tình trạng hôn mê, một trạng thái không điều khiễn đựơc mình .không tự chủ được
Kỷ thuật thôi miên trong phân tâm học, hay trong khai thác việc nói thật của các cơ quan thẫm vấn cũng đưa người bênh hay dịch thủ của mình rơi vào tình trạng này
HT Tuyên Hóa đã có kinh nghiệm về chuyện này khi tự thuật : “ Lần khác, tôi mơ thấy mình ở chung nhà với hai người nữ. Một người tuổi khoảng năm, sáu mươi. Người thứ hai, tuổi khoảng hai mươi. Tôi thấy mình đang nằm ngủ trên giường gạch về phía bắc của căn nhà. Họ nằm ngủ trên giường gạch về phía nam. Đến tối, đang lúc nửa mê nửa tỉnh, cô trẻ tuổi đến bên giường, ôm và kéo tôi đến giường của cô ta. Biết rõ hành vi điên đảo của cô ta, tôi la lên:
- Cô định làm gì? Cô định làm gì?
Không nghe tiếng trả lời, tôi nghĩ: Cô ta chắc không phải là người. Lập tức, tôi liền niệm: Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vừa niệm thì mọi hình ảnh đều biến mất, và tôi giật mình thức dậy. Tuy là chiêm bao, nhưng phần thân bị cô ta ôm nắm vẫn còn đau cả vài ngày.”
-
Dâm nữ ma đăng già & bát kiết đế
Còn theo TM.Tuệ thì lại đi xa hơn TT. NHạnh một chút nửa là nói đến BÙA CHÚ chứ không còn là TÀ CHÚ hay THẦN CHÚ đễ lý giải theo tri thức của y học hiện đại “ Khi bàn đến vấn đề bùa chú, trên đường đi khất thực một mình, A Nan đã bị Ma Ðăng Già bỏ bùa suýt mất giới hạnh. A Nan lại cũng nhờ thần chú Lăng Nghiêm mà thoát nạn. Người ta thường cho bùa là thứ phù phép siêu hình. Riêng chúng tôi thấy vấn đề đó chẳng có bùa phép siêu hình gì hết. Chẳng qua người ta rút từ động vật hay thực vật ra một số hóa chất nào đó có tác dụng làm mê mẫn con người mà thôi. Khi hóa chất tan hết, con người trở lại bình thường, còn chữ và hình vẽ chỉ là một thứ trang trí, mà mắt thiên hạ. Cụ thể như tỏi, nén là chất làm cho rắn bị mê. Sả có mùi làm cho rắn sợ không dám đến gần. Dầu mè, đậu phộng có tác dụng đẩy tử khí ra ngoài. Ngược lại dầu thơm làm xúc tác cho tử khí tăng mùi, thuốc Imenocotan làm cho người hôn mê...
Còn thần chú, muốn có hiệu quả, người trì chú phải có nhiều dụng công, tỉnh, tâm, định lực, thông thường gọi là phải tu luyện, cùng một bài chú có người đọc linh nghiệm, có người đọc không linh nghiệm là do có công phu tu luyện hay không. Thần chú là một phương tiện khi chú tâm trì tụng, giúp cho định lực cao cường, cõi lòng vắng lặng chi phối được tâm tư người khác. Thôi miên hoặc thần giao cách cảm cũng thuộc dạng này, nhưng thấp hơn tu luyện bằng thần chú. Sự thực chỉ có thế, chứ chẳng có gì siêu hình hết.
Dâm nữ ( sách của PS.TTThông thì dịch gái làng chơi ) hiểu theo nghĩa thông thuờng là một nguời đàn bà thích chuyện dâm dục, thích ân ái giao hợp hành lạc, thích chuyện thân xác mây mưa, một người phụ nữ nóng bỏng, bốc lửa, thích làm chuyện ái tình... Dâm nữ, có nên liệt họ vào hàng ma quỉ, rác rến, một lọai đàn bà đồi bại dâm ô hay không ? có lẽ nên hiểu họ thực hiện điều ấy với ai ? với nguời hôn phối, với người tình hay với ba vạn đàn ông... để đánh giá, còn gái làng chơi thì cần phải xem lại vì thời kỳ cách đây hơn 4000 năm trong xã hội Ấn Độ đả có gái điếm chưa ? việc nguời phụ nữ hay trinh nữ tự nguyện hiến thân cho một người mình tôn sùng, cho người mình yêu mến hay ngưỡng mộ hoặc cho một vị khách quí đến thăm là một nghi thức tôn giáo hay là tập tục vẩn cón thấy ở các bộ lạc sơ khai, nguời vợ hay một nguời con gái trong gia đình được đưa đến ngủ qua đêm với một nguời khách quí, những tập tục này cũng cần phải được lưu ý khi diễn đạt....
Nếu hiểu huyễn thuật hay ảo thuật là một điều của sự huyền hoặc, không có thật, một nghệ thuật một cách dẫn dụ không thật để nguời khác tin vào điều đó là sự thật, có thể đó là một sự dối trá và Dâm thuật là nghệ thuật, một cách mô tả, huớng dẫn,một biến tấu về nghệ thuật ái tình thì Ma Đăng Già đã vì yêu A Nan mà phải lụy vì tình, phải dùng đến biện pháp ma giáo mà lôi kéo nguời mình yêu kể cả việc hiến thân như HT Tuyên Hóa nói “Vì những hạt giống này đã gieo trong từ đời này sang đời khác, nên bây giờ nếu cần hy sinh vì A Nan cũng được thôi... ”
Về phương diện tình dục thì câu chuyên khởi đầu trong Suramgama sutra nếu đuợc hiễu theo cách thông thừơng mà không vin vào điễn cố hoặc diễn giải theo kiễu mật tông, hay một thế giới riêng huyền bí bất khả tư nghị thì theo như cách vào đề như vậy quả thật là hiếm thấy và đầy ấn tượng
Con nguời với bản năng tính sẳn có thiện ác tham lam, sân hận, yêu ghét, vui buồn, dâm dục thánh thiện....các thể đối lập với nhau giử một thế cân bằng làm cho cuộc sống, làm cho một đời người có những thăng trầm biến chuyễn thú vị, một người vừa thăm đám ma xong liền đi dự tiệc cứơi, vừa đi lễ xong thì phát lệnh tấn công, vừa từ trong động điếm lại buớc lên giảng đường nói chuyện đạo đức, nhiều khuôn mặt trong một con nguời, cái tổng thể xem chừng như rời rạc mà lại gắng chặt với nhau, vận động uyễn chuyễn đó là một con nguời sống đích thực
Trong kinh Dịch thì khái niệm biến đổi sinh tồn của vũ trụ và con người " Thiên địa nhân huân, vạn vật hóa thuần; nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh" (Trời đất giao cảm mà vạn vật có đủ loại; giống đực giống cái kết hợp tinh khí mà vạn vật sinh nở biến hóa), nghĩa là trời đất cũng như giống đực giống cái, qua tính giao mà sáng tạo vạn vật.
Thuợng đế sinh ra vũ trụ
Phạm thiên là vua của cõi ta bà thế giới, nguời khai sinh ra vạn vật,
Âm duơng biến hóa vạn vật, mở mang và phát triễn
Sinh diệt là một qui luật quan sát được và khoa học của tạo hóa, một vận động không ngừng, một sự sáng tạo, là sự hình thành cuộc sống hiện tại trong kiếp đời này, không sinh không diệt lại là một chuyện khác
Về phuơng diện tình dục học là một khoa học và nghệ thuật nghiên cứu và khảo sát về bản năng tính dục và chức năng tình dục của con nguời
Hạn chế bản năng tính dục, điều chỉnh lại các rối loạn chức năng tình dục, khám phá những biện pháp mới và phù hợp trong tiến trình phát triễn văn minh và đạo đức của con nguời trong lảnh vực tình dục đó là mục đích của bộ môn mới mẽ này
Câu chuyện dâm nữ Ma Đăng Già trong Suramgama Sutra là tiền đề cho việc nghiên cứu về dâm thuật và chế ngự bản năng tính dục, đó là hai vấn đề lớn trong tình dục
Rất mong quí vị thức giả chỉ giáo
BS Hồ Đăc Duy
-
Bí thuật phòng trung của khuất vu & hấp tinh đại pháp
BÍ THUẬT PHÒNG TRUNG CỦA KHUẤT VU & HẤP TINH ĐẠI PHÁP CỦA NÀNG HẠ CƠ
NGHỆ THUẬT TRONG ĐỜI SỐNG CHĂN GỐI
Khuất Vu :
Trước Khuất Vu là bầy tôi của Sở Trang Vương sau bỏ Sở sang Ngô
Sở bấy giờ là nước bá chủ, Ngô nhỏ binh lực lại yếu hơn sau nhờ có Khuất Vu đem phương pháp "chiến xa" ra dạy quân sĩ nước Ngô. Nước Ngô đã trơ nên một nước hùng cường,
Khi Trang Vương đem binh đánh Trần thấy Hạ Cơ xinh đẹp ý muốn thu dùng, nhưng Khuất Vu, một tướng lãnh tài ba,trẻ tuổi, lại luyện được phép "Bí thuật phòng trung", bấy lâu đã nghe tiếng Hạ Cơ có ngón ăn chơi trác tuyệt muốn ân ái một phen bèn ra sức can Sở Trang Vương đừng thu dùng nàng ! Trang Vương lại muốn gả cho người khác, Khuất Vu cũng lại can, cuối cùng vua gã cho một vị tướng già là Tương Lão
Hạ Cơ lại thông dâm với con Tương Lão, việc đổ bể Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh, còn con của Tương Lão bị hành hình
Khuất Vu đi sứ sang Trịnh, nhân cơ hội đó Khuất Vu tư thông với Hạ Cơ, rồi đưa nàng trốn sang Tấn " xây mộng uyên ương ". Mấy năm sau Khuất Vu đem nàng sang nước Ngô và ở hẳn nơi này. Từ đấy về sau không còn ai biết Hạ Cơ ra sao nữa và hình như họ sống rất hòa hợp
Hạ Cơ :
Vào thời Xuân Thu (- 722 đến -480 TCN), có người con gái ở nước Trịnh tên là Hạ Cơ, Hạ Cơ, hể mỗi lần ăn nằm với ai rồi, nàng trở lại "hoàn tân" như cũ.
Người đời nghi nàng có thuật "Hấp Tinh Đại Pháp " công tử Trần Man người tình đầu tiên của nàng, tư thông với nàng vài năm rồi qua đời. Sau là Tư Mã Hạ Ngự Thúc hai vợ chồng có một con trai là Hạ Trưng Thư, rồi Ngự Thúc bỗng chết đi mà không có lý do
Hễ ai đã ân ái với nàng thì thường gặp nạn, duy chỉ có một mình Khuất Vu thì không
Sau Trần Man và Ngự Thú Hạ Cơ lại sống một làn với Khổng Ninh và Nghi
Hàng Phủ, là hai ông quan trong triều. Một hôm Khổng Ninh lấy trộm của nàng cái " Cẩm dương " ( quần lót bằng gấm) về khoe rùm lên Nghi Hàng Phủ thấy vậy nỗi cơn ghen cố nài nĩ nàng xin cho được chiếc " Bích la nhu "( áo lót bằng lụa màu xanh biếc) để trêu lại. Khổng Ninh cả giận liền tiết lộ cho vua Trần Linh Công biết, Trần Linh Công nghe kể thích quá liền nhập cuộc chơi, Hạ Cơ liền tặng vua chiếc áo lót nữa !!...
Từ đó, sau mỗi lần bãi triều, ba tay ăn chơi đó đều đem " bảo vật " ra khoe với nhau . Thật là một triều đình quái dị chưa từng có. Trong triều có quan Đại phu Tiết Giả, thấy vậy liền can vua và chỉ trích hai tên mất nết kia. Nhà vua ngoài miệng hứa chừa, nhưng âm mưu với hai tên kia, mưu giết Tiết Giả đi .
Tiết Giả chết rồi không còn có ai dám can ngăn nữa, bộ ba ấy mặc sức tung hoành trác táng
Hạ Cơ cho con là Trưng Thư về Kinh đô để học Trưng Thư lớn lên, có tài võ nghệ . Linh Công cho Thư nối chức cha làm Tư Mã, ở lại kinh.
Từ đó Hạ Cơ một mình tiếp luôn ba người không biết mệt mõi
Một hôm Hạ Trưng Thư ở kinh về Châu Lâm trông thấy Vua và Khổng Ninh,Hàng Phủ cùng Hạ Cơ đang vầy cuộc ái ân, ăn nói suồng sã bỉ ổi dâm loạn, lập tức Hạ Trưng Thư cho quân vây quanh nhà và giết được Vua Trần Linh Công còn hai tên kia chạy thoát qua nước Sở, vào kêu oan với Sở Trang Vương rằng Hạ Trưng Thư giết vua để soán ngôi
Trang Vương đem binh đánh Trần, giết Hạ Trưng Thư, thấy Hạ Cơ xinh đẹp ý muốn thu dùng, Trang Vương gã cho một vị tướng già là Tương Lão.
Hạ Cơ đi lại với con Tương Lão, việc bại lộ Hạ Cơ bỏ sang nước Trịnh
Thế nào là Hấp Tinh Đại Pháp
Hấp Tinh Đại Pháp là bí thuật mà nhiều người cho rằng Hạ Cơ đã học được từ một môn phái ma giáo và cứ hễ ai đã đi qua đời nàng một lần thì coi như thế nào cũng chết, nàng là khắc tinh của đàn ông
Xem những người tình đã một lần đi qua đời nàng thì rõ họ luôn luôn được thoả mãn về tình dục, từ vua Trần linh Công cho đến Khuất Vu., đến nỗi Linh Công vì nàng mà chết
Sau khi sinh Hạ Trung Thư, nàng vẫn còn hấp dẫn nhiều ngươì khác, vẫn như thuở ban đầu . Như vậy xét về mặt Y Học và Tình Dục nàng phải có một số đặc điễm cấu tạo về thân thể và nghệ thuật yêu đương mà những phụ nữ khác không
1. Hạ Cơ có lẽ có một cấu tạo đặt biệt ở cơ quan sinh dục như các cơ vòng bao quanh ống âm đạo có thể điều khiển được sự co thắt theo ý muốn (như trường hợp một vài người có thể điều khiển vành tai ) cho nên lúc nào giao hợp dương vật cũng được âm đạo ôm sát và co bóp liên tục,cảm giác đó làm cho người đàn ông tưởng "như mới", màn trinh của nàng cũng có thể là loại màn trinh mỏng có độ đàn hồi tốt và có đường kính lỗ thoát lớn
Có lẽ Hạ Cơ học được phương pháp “hành khí” luyện tập bằng cách lấy dây lụa cột ngang lưng và tập chuyển động phần từ eo xuống mà phần trên không cần chuyển động. Sau đó nàng dùng thuật “bế khí chỉ tức” nín thở một hơi thật lâu. Với phương pháp hành khí, nữ nhân có thể co rút bóp mở âm hộ, âm đạo theo ý muốn
Công dụng của phương pháp nầy là làm cho dương vật được bóp chặt, làm cho người đối diện cảm thấy nữ nhân như mới khám phá này về sau được nói đến trong sách“Hương Muội
Tất cả nghệ thuật ân ái của Hạ Cơ thì chỉ có bí thuật phòng trung của Khuất Vu mới trị được
Thế nào là Bí Thuật Phòng Trung :
Nhục Bồ Đoàn, Đạo Ma Mật Truyền, Ngọc Phòng Bí Kiếp là những sách bàn về tình dục củaTrung Hoa đã hơn mấy ngàn năm trước . Sách “Liệt tiên toàn truyện” có ghi lại truyện Thái Nữ vâng lệnh của vua Chân Mục Vương (976 tr. Công nguyên) đi hỏi Bành Tổ tiên sinh về bí thuật phòng trung để về truyền lại cho vua. Từ đó về sau mục Vương là người hưởng được kết quả diệu kỳ của hành sự giao hoan theo đúng phương pháp.
Sách “Thập di ký” có ghi chuyện Vương mẫu xuống trần ăn ở cùng với Mục Vương của vùng Vị Châu thời Đông Tấn. Lúc nầy Mục Vương đã hơn 50 tuổi. Vương mẫu chỉ dẫn Mục Vương cách giao hoan.
Có lẽ Khuất vu đã học được các bí quyết dưỡng sinh, thập tứ kinh lạc huyệt đạo tuyến “bát thiển nhị thâm, tử vãn sanh hoàn” “cửu thiển nhất thâm tả tam hữu tam” phép đạo dẫn “thái âm bổ dương” “thai tức” “tiểu châu thiên mà người đời sau biên chép thành sách
Trong quyển “Ngọc Phòng Bí Quyết” có nói nếu đàn ông tập luyện được cách hô hấp đằng bụng, cho không khí vào sâu tới bụng thì sẽ tăng thể lực và trì lực (sức chống chỏi), khi giao hợp chống lại xuất tinh chỉ cần hít hơi dài vào đan điền đếm từ một đến 30 mới thay hơi khác, như vậy dương cụ sẽ cương cứng lâu hơn và chống chỏi lại khuynh hướng xuất tinh.
Từ thời Hán y giới Trung Hoa đã có “Cam mạch đại tổ thang” là thang thuốc an thần trị bệnh cho phụ nữ mà chất chính vẫn là hạch tổ lấy từ trong âm đạo.
Trung quốc vốn nổi tiếng về các thang thuốc cường tinh tráng thể. Các thứ nầy vốn khác xa với các thứ thuốc kích dâm ngày nay. Thuốc kích dâm kích động thần kinh cho hứng tình gợi dục mà không giúp thân thể bổ dưỡng, Thuốc cương tinh tráng thể của Trung quốc trái lại là thứ giúp thân thể chống lại bệnh suy nhược do các cách giao hợp không đúng phương pháp sanh ra mà vẫn giúp được người dùng cảm thấy thích thú trong khi giao hoan.
Ở đời cổ Trung quốc có một số ngưới biết lợi dụng nguyên lý châm cứu để kích thích dục tình của nữ nhân trước khi giao hợp, và họ đã đạt được kết quả là khiến cho nữ nhân “xuân tình bộc phát” sẵn sàng đáp ứng để cùng nhau đạt tớt cao điểm sướng khoái cùng lúc. Nguyên tắc châm cứu là “kích thích 14 kinh mạch và các đường huyệt đạo liên quan tới tình dục” (thập tứ kinh lạc huyệt đạo tuyến).
Thời Tuỳ Đường có cuốn sách nói về chuyện ái ân là “Ngọc Phòng Bí Quyết” bàn về nghệ thuật phòng trung, trong đó có câu thiệu “bát thiển nhị thâm, tử vãn sanh hoàn” cũng tương tự như nguyên tắc “cửu thiển nhất thâm tả tam hữu tam” phép đạo dẫn là những động tác co duỗi, xấp ngửa, đi ngồi, đứng lên quỳ xuống, đi bộ, hô hấp… có tác dụng lưu thông máu huyết để cường sinh khang kiện thân thể.
Thời Hoa Đà có ông Lãnh Thọ Quang cũng là người thực hành viên mãn phép đạo dẫn. Ông thường vận động đầu cổ và hít thở thật sâu lại áp dụng thành công các bí quyết phòng trung nên khi đã hơn 160 tuổi tuy đầu tóc đã bạc mà thần khí vẫn như người thanh xuân. Bí quyết phòng sự của ông ta là “thái âm bổ dương” gặt hái thu lượm cái âm khí để làm bổ cái dương khí.
Đời Động Tấn có người Cất Hồng đề xướng lối “thai tức” nghĩa là thở như thai nhi trong bụng mẹ, Ai luyện đến mức nầy có thể cải lão hoàn đồng, tuổi già không đến.
Áp dụng nguyên tắc nầy trong việc phòng sự là cách giữ lại không cho xuất tinh bằng cách hít hơi thật dài vô phổi nín hơi thật lâu mới thở ra tư từ,nhiều lần khi thấy mình sắp bắn tinh
Cổ truyền ở Trung quốc có phương pháp luyện tập gọi là “tiểu châu thiên” là khi ngồi yên tĩnh tọa dương khí từ đan điển (chỗ rốn), tiến lên hội âm (giữa cơ quan sinh dục và bàng quang) xuyên qua giáp-suy (giữa xương sống) vào ngọc-chẩm (sau ót) tới nê-hoàn (đại não), xuống đài trung (giữa hai vú) trở về lại đan điền là xong một quá trình. Cứ như vậy mà điều khiển dưỡng khí chu du, công phu nầy phải luyện đến hai ba năm mới xong. Nam nhân đạt được pháp môn “tiểu châu thiên” Thì giao hợp lâu mà không hao tổn sinh lực.
Trong quyển “Ngọc Phòng Bí Quyết” có nói nếu đàn ông tập luyện được cách hô hấp đằng bụng, cho không khí vào sâu tới bụng thì sẽ tăng thể lực và trì lực (sức chống chỏi), khi giao hợp chống lại xuất tinh chỉ cần hít hơi dài vào đan điền đếm từ một đến 30 mới thay hơi khác, như vậy dương cụ sẽ cương cứng lâu hơn và chống chỏi lại khuynh hướng xuất tinh.
Nói chung các bí thuật phòng trung mà Khuất Vu đã học được đã làm cho Khuất Vu trở thành người đàn ông có thễ điều khiễn khả năng tình dục theo ý muốn, nhanh hay chậm, bế tinh hay xuất tinh, cường nhược tùy thích mà vẫn giử gìn được sức khỏe
BS HỒ ĐẮC DUY
Quyền viết bài
- Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
- Bạn Không thể Gửi trả lời
- Bạn Không thể Gửi file đính kèm
- Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
Nội quy - Quy định