PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC – PHƯỚC ĐỨC TRONG TU HỌC GIÁC NGỘ
Để phân biệt thế nào là công đức? và thế nào là phước đức? trong tu học giác ngộ thì chúng ta cần phải hiểu căn bản về lịch sử phát triển của học thuyết giác ngộ(Phật học nguyên thủy) do Đức Phật Cồ Đàm thuyết giảng(thế kỷ VI TCN cũng như Đạo Giáo cổ xưa của người Trung Quốc do Lão Tử đề xướng(thế kỷ VI TCN)
Ngay trước thời Đức Phật Cồ Đàm, từ Niết Bàn cũng đã được các tu sĩ Balamon giáo thời ấy dùng, vì khế lý khế cơ nên Đức Phật cũng mượn từ Niết Bàn để diễn tả nhằm giúp các tin chúng thời đó dễ tiếp nhận, nhưng Đức Phật đã định nghĩa lại Niết Bàn để chỉ về Bản Tâm chung của vũ trụ, của muôn loài là nơi trong sạch, sáng suốt và thường còn, mang 3 hàm tính Tĩnh-Tịnh-không. Thời Đức Phật còn tại thế không hề sử dụng từ Công Đức và Phước Đức trong giáo pháp Ngài giảng giải. Mãi đến cuối thế kỷ thứ V Tổ Bồ Đề Đạt Ma(tổ thứ 28) sang Trung Quốc truyền giáo, cũng vì kế lý và khế cơ nên ngài mới dùng Công Đức-Phước Đức để giảng nói cho hợp với tín chúng thời đó(thời đó người Trung Quốc theo Đạo Giáo, không biết nhiều về Phật học nguyên thủy nên tổ Đạt Ma đã mượn vài ý niệm tương đồng giữa Phật Học Nguyên Thủy và Đạo Giáo để lồng ghép vào cho tín chúng bản địa dễ tiếp nhận. Điều đó không có nghĩa là Đạo Giáo thay thế Phật Học Nguyên Thủy)
Nói về Công Đức-Phước Đức thì chúng ta cần hiểu về Đạo. Nội dung thiết yếu của triết lý Đạo giáo nguyên thủy mà Lão Tử (TK VI TCN) đề xướng luôn xoay quanh ý niệm trọng tâm về “Đạo và Thuận Đạo” đã được lưu lại trong tài liệu cổ Trung Quốc với tựa đề “Đạo Đức Kinh” - nhằm chỉ ra một cách khái quát những qui luật cốt lõi trọng yếu và nguyên bản (Tánh) của tự nhiên và xã hội, mà việc chính yếu là khuyên con người sống sao cho thuận Đạo, đồng thời cố gắng trau dồi phẩm hạnh (sống sao cho phải đạo), thành tựu nên (đắc thành) công đức để giúp xoay dần những chướng ngại do hành động sai lầm(thất đức) trong đời sống(bởi cầu vọng, tranh giành, chiếm đoạt, chấp giữ) đặng sớm mà trở về với Đạo. Những hành động như: cầu vọng(sanh ra tham cấu, bành trướng), tranh giành(sanh ra mê cấu, hỗn loạn), chiếm đoạt(sanh ra sân cấu, vướng kẹt), chấp giữ(sanh ra si cấu, cản trở) gọi chung là Hữu Vi. Nếu tu luyện thành công đức giúp chuyển Hữu Vi thành Vô Vi thì sẽ thể nhập trở về với ĐẠO... Lão Tử cho rằng bản nguyên của vũ trụ nói chung và vạn vật nói riêng tất cả đều được sinh ra từ “Đạo” mà thành – nguồn gốc của muôn loài và vũ trụ - vốn luôn bất biến, hoàn toàn tự do, tự tại không chút gì vướng bận (vô vi). Nói cách khác “Đạo” bao hàm tính nguyên thủy của vạn vật đó là sự dung nạp (bao bọc, phủ khắp), trong suốt và tĩnh lặng tuyệt đối (vô vi). "ĐẠO" chính là nguồn gốc khai sinh ra vạn vật
Những ý niệm tương đồng giữa Đạo giáo nguyên thủy và Giáo pháp Giác ngộ nguyên thủy như sau:
1. Đạo là thường hằng, bất biến, là nguồn gốc của vạn vật -> tương đồng với Niết Bàn là bản thể thường hằng của chư pháp.
2. Đạo thường(luôn luôn, như như) Vô Vi(không cầu vọng, không tranh giành, không chiếm đoạt và không chấp giữ), không giống như những gì mà chúng ta gọi là(Danh) hay thấy biết bằng 5 giác quan bình thường(Đạo khả đạo phi thường đạo, Danh khả danh phi thường danh) và không mang hình tướng, không phải là tên gọi của thế gian(Vô, danh thiên địa chi thủy) -> tức là Đạo luôn tĩnh lặng, tịch diệt và Không[Vô (Danh, Vi, Tướng)] -> tương đồng với 3 hàm tính: Tĩnh-Tịnh(Tịch)-Không của Niết Bàn. Vì vậy, những khái niệm như là: đắc đạo cũng được hiểu tương đồng với nhập niết bàn và pháp vô vi tương đồng với pháp tánh(vô duyên khởi, vô tướng) chính là ở chỗ nầy.
3. Đức là năng lực để chuyển luân vạn vật quay về hoặc cách xa Đạo. Công đức giúp quay về với Đạo, đạo đức giúp tiếp cận với Đạo, phước đức giúp không cách xa Đạo, thất đức làm rời xa Đạo -> khái niệm Đức gần tương đồng với khái niệm Nghiệp trong Phật học:
* Công đức tương đồng với Chánh Định Nghiệp(-> Tuệ tri, Huệ năng).
*Đạo đức tương đồng với Chánh Nghiệp.
*Phước đức tương đồng với Thiện Nghiệp.
*Thất đức hay Ác đức tương đồng với Tà Nghiệp hay Ác Nghiệp
Không phân biệt giữa Công đức/Phước đức cũng như Công phu/Công sức thì không bao giờ thấy được ĐẠO. Công đức là do ta tự soi chiếu bên trong mình(tự soi chiếu chỉnh sửa lại hành thức bên trong mình) tu thành phẩm hạnh để dần trở về với ĐẠO, Phước đức là những việc làm bên ngoài[từ thiện(người tàn tật, già yếu, trẻ mồ côi, người nghèo khổ), giúp đở cộng đồng(kiến thức đúng, phương tiện sống, phương tiện học tập, tu tập), bảo vệ môi sinh] nhằm trợ duyên giúp giãm thiểu quả báo(nghiệp báo), tránh bớt những oán nghiệp thế gian chứ hoàn toàn không giúp đắc đạo
Đối chứng lời dạy của Tổ Đạt Ma trong kinh Thiếu Thất Luc Môn Yếu Chỉ
"Nếu người cầu đạo không hiểu được ý nghĩa của việc đúc vẽ hình tượng(lấy thân làm lò đốt, lấy pháp làm lửa nóng, lấy trí huệ làm thợ khéo, lấy ba nhóm giới thanh tịnh cùng với sáu pháp ba-la-mật làm khuôn đúc để mà đúc luyện) chứ không phải là pháp hữu vi hoại nát, thì do đâu có thể nói là được công đức?... Lại nói về việc lễ lạy(Lễ tức là cung kính đối với chân tánh, lạy tức là khuất phục sự ngu si tăm tối), cần phải theo đúng như chánh pháp. Lý trong tâm phải luôn sáng rõ, sự bên ngoài phải biết tùy hoàn cảnh mà thay đổi thích hợp. Hiểu được ý nghĩa như thế mới gọi là theo đúng như chánh pháp... Bên ngoài rõ biết, bên trong sáng tỏ, tánh và tướng cùng tương hợp với nhau. Nếu không làm theo đúng pháp như thế, chỉ mê chấp cầu hình tướng bên ngoài, trong lòng buông thả những tham lam, ngu si, thường làm các nghiệp ác, thì ngoài chỉ nhọc nhằn thân xác vô ích, giả hiện vẻ uy nghi, không biết hổ thẹn với bậc thánh, dối gạt kẻ phàm tục, chẳng ra khỏi chốn luân hồi, làm sao lại thành công đức?.
Người đời nay không hiểu được những nghĩa lý ấy, do sự hiểu biết nông cạn của mình nên chỉ lấy những việc làm theo hình tướng mà cho là công đức, tốn kém biết bao nhiêu tiền của; đắp tượng, xây tháp uổng phí sức người; dốc lòng hết sức cũng chỉ tự làm tổn hại bản thân, mê hoặc người khác, chẳng biết là rất đáng hổ thẹn, biết bao giờ được giác ngộ? Thấy pháp hữu vi thì hết lòng đắm chấp, mê muội, nghe nói đến pháp vô vi thì ngớ ngẩn, lập lờ. Chỉ tham những điều lành nhỏ nhoi trước mắt, nào biết được nỗi khổ lớn mai sau? Tu học như thế chỉ tự mình nhọc công phí sức, bỏ chánh theo tà, ai bảo là được phước?"...
“ chỉ cần thâu nhiếp được tâm, soi chiếu bên trong, tỉnh thức sáng tỏ rõ biết bên ngoài, tham sân si vĩnh viễn dứt tuyệt, ngăn giữ sáu căn chẳng để ngoại trần quáy nhiễu thì tự nhiên vô số công đức thảy đều trang nghiêm, vô số pháp môn thảy đều thành tựu, vượt phàm chứng thánh thấy ngay trước mắt, ngộ đạo trong giây lát, đợi chi đến lúc bạc đầu”.
Lời dạy Tổ Huệ Năng trong kinh Pháp Bảo Đàn Kinh
“Xây chùa, bố thí, cúng dường chỉ là tu phước, không thể lấy phước làm công đức được. Công đức ở tại Pháp thân, không phải ở phước điền. Tự trong pháp tánh đã có công đức. Kiến tánh là công, bình đẳng là đức. Bên trong thấy Phật tánh, bên ngoài tu hành cung kính. Nếu như khinh tất cả mọi người, không cắt đứt được sự chấp ngã, thì tự mình không thể có công đức được. Nếu như tự tánh mình hư vọng, Pháp thân không còn có đức nữa. Nếu trong niệm niệm liên tục có tu hành phước đức và bình đẳng chơn tâm, thì công đức sẽ không nhỏ và hành vi luôn luôn cung kính. Tự tu thân là công, tự tu tâm là đức. Công đức là do tự tâm mà ra, phước và công đức là khác nhau"
Nhớ lại tích xưa lúc Tổ Đạt Ma sang Trung Quốc đến tương kiến vua Lương Vũ Đế và vua hỏi: Lâu nay trẫm cho xây chùa, chép kinh, độ tăng rất nhiều không kể xiết, vậy có công đức gì không?.
Tổ đáp: chẳng phải công đức, đó chỉ là phước đức thế gian tức nhân hữu lậu tạo quả nhỏ trong vòng nhân, thiên(vẫn còn luân hồi trong các cõi người, trời) như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật, công đức thật sự đó là trí phải được trong sạch hoàn toàn và thể phải được trống không vắng lặng(phải công phu tu luyện công hạnh) hoàn toàn không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được!.
Tóm lại:
Công đức: là do ta hành trì công phu tu tập, tự chĩnh sữa thân tâm (tự soi chiếu chỉnh sửa hành thức bên trong mình) để thành phẩm hạnh để dần trở về với Đạo(Niết Bàn)
Phước Đức là những việc làm bên ngoài như: từ thiện(người tàn tật, già yếu, trẻ mồ côi, người nghèo khổ…), giúp đở cộng đồng(kiến thức đúng, phương tiện sống, phương tiện học tập, tu tập…), bảo vệ môi sinh. Đây là nhân hữu lậu tạo quả nhỏ trong vòng nhân thiên(vẫn còn luân hồi trong các cõi người, trời) chứ hoàn toàn không giúp đắc đạo
Không phân biệt giữa Công đức/Phước đức cũng như Công phu/Công sức thì không bao giờ thấy được ĐẠO