Theo tôi hiểu thì có hai nguyên do đưa tới kiểu nói “Công giáo”.

Thứ nhất là về chữ “giáo”: Theo đúng nghĩa của nó thì tất cả những người theo đạo Giêsu Cứu Thế đều là thành phần của một cộng đoàn catholica, chung cho cả thế giới, không phân biệt quốc gia dân tộc, coi mọi người là anh em, con một Cha chung; vì cộng đoàn không có tính cách thế tục, hơn nữa lại cũng không phân biệt tông phái. Vì thế các tông phái, tuy nhiều khi không tự xưng là catholica, nhưng cùng có niềm tin một cộng đoàn catholica như nhau.

Vào thế kỉ XI vì một vài lí do có tính cách văn hóa và cách thức tổ chức, lại đôi khi có thêm lí do chính trị và kinh tế, hơn là vì lí do đức tin, nên có li khai thành hai tông phái, hai cộng đoàn: người miền Ðông Âu, nói tiếng Hy Lạp, thì tự xưng là “oxthodoxes”, có nghĩa là “chính kiến”, nhưng ta quen gọi là giáo hội “Chính Thống”; còn người miền Tây Âu, nói tiếng Latinh, thì không lấy tên gì khác, cho nên vẫn gọi là giáo hội catholica. Ðến thế kỉ XVI, lại có li khai nữa ở giáo hội Tây Âu: những người ở Bắc Âu đi theo phong trào cải cách của Martin Luther (1483-1546) và của Jean Calvin (1509-1564) thì tự xưng là “Tin Lành” (évangélique), “Cải giáo (réforme) hay là “Chống đối” (protestant, không nên dịch là “thệ phản”). Còn những người miền nam Châu Âu, không chống đối, không li khai với giáo tông, thì không có tên gì khác, cho nên vẫn gọi là giáo hội catholica. Từ đó, giáo hội gọi là catholica, chỉ còn là một tông phái, tuy là cộng đoàn đông người nhất, nhưng không thu họp được tất cả các môn đồ của giáo tổ Giêsu nữa. Những giáo sĩ đầu tiên sang truyền giáo ở Việt Nam đều thuộc về giáo hội catholica cả.

Thêm vào đó chữ catholica, theo lí thuyết phải dùng để chỉ một đặc tính của giáo hội, thì dần dần ở Châu Âu người ta dùng để chỉ tôn giáo. Vì lí do rằng mỗi tông phái trên đây đều cho rằng đường lối của mình là chính đạo. Từ đó, ngay từ bên Châu Âu người ta đã nói đến đạo Chính Thống (religion orthodoxe), đạo Tin Lành (religion protestante) và đạo catholica. Theo như tôi biết thì trong sách vở bằng tiếng Việt có lẽ Philiphê Bỉnh là người đầu tiên dùng kiểu nói “đạo catholica Romana”, “đạo catholica” (Xem Sách sổ sang chép các việc, đã dẫn trên đây, trang 177 và 191). Như thế là ta giải thích được chữ “giáo” trong kiểu nói “Công giáo”.

Thứ hai là về chữ “công”: Chữ catholica trước đây không được phiên dịch ra tiếng Việt, mà chỉ được giải thích là: “hội thánh hằng có ở khắp thế này”. Vì thế tôi nghĩ phải tìm trong sách đạo viết bằng chữ Hán dùng ở Việt Nam. Thực ra các giáo sĩ người Âu, trước khi họ sang Việt Nam, thì thường đã sang Trung Hoa trước, và đem sang bên ta một ít sách chữ Hán cho mình dùng, không những là sách giáo lí mà cả sách chép các kinh nhật tụng nữa. Ðặc biệt nhất là Kinh cầu Ðức Bà bằng chữ Hán, gọi là Kinh cầu chữ, mà trước đây thường đọc trong những ngày giỗ.

Tôi đã may mắn tìm được trong cuốn sách viết tay Bổn Ba Ngôi (AMEP, số V-1100) trang 115, có Kinh Tin Kính phiên âm Hán –Việt. Kinh bắt đầu thế này: “Thần tín tuyền năng giả Thiên Chúa Phatêrê tạo thành thiên địa, v.v…: (= Tôi tin kính Ðức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất, v.v…). Ðến chỗ nói về giáo hội thì phiên âm Hán-Việt là như sau: “Thần tín hữu thánh nhi công Ighêregia”. “Thần tín hữu” là “Tôi tin có”; “thánh” là dịch chữ “sancta” là “thánh thiện”; “nhi” là “mà, mà lại”; còn “Ighêrêgia” là phiên âm chữ “Igreja”, “ecclesia” (église), tức là giáo hội, hội thánh. Riêng chữ “công” ở đây là dịch chữ “catholica”, có nghĩa là (hội thánh) hằng có ở khắp thế này”, như đã giải thích trên đây.

Như thế đã rõ: tông phái catholica theo đường lối nào, theo đạo nào, thì đạo ấy gọi là đạo catholica, tức là đạo chung cho mọi người. Lại vì chữ “công” có nghĩa là “chung”, cho nên người Trung Hoa dịch “catholica” là “công”. Thành ra khi chuyển đặc tính catholica làm đặc tính của đạo, thì dĩ nhiên là người ta dùng hai chữ “Công giáo”. Tôi không biết người đầu tiên dùng hai chữ “Công giáo” có cân nhắc như thế không, nhưng tôi trộm nghĩ đó là cái lí sự làm nền tảng cho cách phiên dịch chữ “religio catholica”.

Vẫn biết là cần phải nói cho chính danh, mới tránh được hành động sai lầm, nhưng tôi nghĩ không nên câu nệ về từ nguyên [9] . Những kiểu nói tuy không hoàn toàn đúng, nhưng dùng đã quá quen, như hai chữ “Công giáo”, thì có lẽ không nên sửa lại nữa, nhưng cần phải giải thích để hiểu cho đúng./.

Trần Văn Toàn, GS. Ðại học Công giáo Lille, Pháp.
———————————————— —————————–

[1]“Tradition chinoise et religion”, trong cuốn sách tập thể Catholicisme et sociétés asiatiques, do Alain Forest và Yoschibaru Tsuboi thu thập, Nxb. L’Harmattan, Paris, 1988, tr. 21.
[2]Ba vị đó là Matteo đã viết cuốn Thiên Chủ Thực Nghĩa, Diego de Pantoja đã viết cuốn Thất Khắc (là bảy điều khắc kỉ, lấy bảy nhân đức để khắc phục bảy thói xấu. Sách chữ Hán này đã có dùng tại Việt Nam) và Ferdinand Verbiest đã viết sách trình bày đại cương các tín lí cơ bản của đạo Thiên Chúa. Trong bức thư viết tại Bắc Kinh, ngày 31-7-1778, một giáo sĩ có kể như sau: “Ðiều làm cho chúng tôi thích thú, là trong tủ sách có giá trị đó thì hoàng đế đã cho xếp vào đó ba cuốn sách do các giáo sĩ dòng Tên (tu hội lấy tên đức Giêsu mà gọi) biên soạn”, và ông kết luận: “Ðây là điều tiền hậu bất nhất của con người ta. Người Trung Quốc đem sách của đạo ta vào sổ các sách tốt nhất viết bằng Hán văn, nhưng họ lại bắt bớ cấm cách người theo đạo ta” (trong Nouvelles lettres édifiantes et curieuses, Lyon, 1819, tập XIII, tr. 519-520).
[3]Xem: Archives des Missions étrangéres de Paris (Văn khố Hội Thừa sai nước ngoài tại Paris), tập V-1102.
[4]“La tradition Vietnamienne: un Etat national au sein de la civilisation chinoise”, in trong Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises (Saigon), bộ mới, tập XLV, số 2+3, 1970, tr. 101.
[5]Xem sách Lords of life: The paternal Monarchy of Bankok, London, 1960, tr. 36.
[6]Vietnam and the Chinese Model, Cambridge (Ma) and London, 1988, tr. 246.
[7]Cũng như bên nhà Phật, cộng đoàn những người đi tu theo Phật pháp gọi là Sâng, người Trung Hoa không dịch, nhưng phiên âm là seng (seng-jia), đọc theo giọng Hán –Việt là tăng (tăng già), nhưng hình như không còn hiểu là cộng đoàn, mà hiểu là cá nhân người đi tu, nghĩa là ông sư (người đi tu ngày xưa tự xưng là bần tăng). Thiết tưởng có lẽ vì thế mà ngày nay khi muốn nói đến cộng đoàn thì bên nhà Phật cũng dùng chữ giáo hội (église) như bên Công giáo.
[8]“Quốc ngữ” ở đây có nghĩa là tiếng nước ta, tiếng Việt, chứ không phải chữ Hán. Vì thế chữ Nôm cũng gọi là chữ Quốc ngữ.
[9]Ví dụ ở Châu Âu ngày nay ai nấy đều dùng Physiologie theo nghĩa là Sinh lí học, mà không xét rằng theo từ nguyên thì nó có nghĩa là Thiên nhiên luận, như triết gia Feuerbach đã dùng. Cũng như hai chữ Hán-Việt phương tiện thì Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, 1967, định nghĩa là Vật sử dụng để làm một việc gì, để đạt một mục đích; nhưng trong Dictionnaire Chinois-Francais, Bắc Kinh, 1964, lại dịch hai chữ fang biàn (phương tiện) là Commode, Favorable, Commodité, Favoriser; và kiểu nói qù fang biàn (khứ phương tiện) phải hiểu là… đi nhà vệ sinh.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội, số 4. 2003; Tạp Chí Triết Đạo.

Tác giả: Trần Văn Toàn, Gs.

(theo Dung Lạc – dunglac.org)